Không còn 'đánh kẻng ghi tên', nông dân điều hành sản xuất từ xa

Sau gần 40 năm đổi mới, ngành nông nghiệp Hải Dương đã có những bước phát triển vượt bậc, từ 'đánh kẻng ghi tên', nông dân đã thay đổi tư duy làm kinh tế nông nghiệp, điều hành sản xuất từ xa.

Nông dân xã Phạm Trấn (Gia Lộc) điều khiển hệ thống tưới nước nhỏ giọt cho ruộng dưa lưới trồng trong nhà màng bằng phần mềm trên điện thoại di động

Nông dân xã Phạm Trấn (Gia Lộc) điều khiển hệ thống tưới nước nhỏ giọt cho ruộng dưa lưới trồng trong nhà màng bằng phần mềm trên điện thoại di động

Xa rồi “con trâu đi trước, cái cày theo sau”

Cụ Nguyễn Đăng Giác (90 tuổi), nguyên là Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ (nay là xã Kỳ Sơn, Tứ Kỳ) thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mở cho tôi xem quyển nhật ký ghi lại toàn bộ hoạt động của hợp tác xã từ năm 1959-1975. Cụ bảo: "Kỷ niệm một thời đánh kẻng ghi tên, thời mà con trâu đi trước, cái cày theo sau ở trong này cả".

Cuốn nhật ký về Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ (nay là xã Kỳ Sơn) được cụ Giác lưu giữ

Cuốn nhật ký về Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ (nay là xã Kỳ Sơn) được cụ Giác lưu giữ

Năm 1962, Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ thành lập với 9 đội sản xuất, thực hiện nhiệm vụ canh tác 220 ha lúa, hoa màu và duy trì hoạt động 1 trang trại nuôi lợn tập trung.

Hợp tác xã đã thu hút đại bộ phận nông dân tham gia.

Cứ 7 giờ sáng hằng ngày, khi tiếng kẻng điều công vang lên, xã viên ở 9 đội sản xuất lại tập trung ở đầu làng. Đội trưởng các đội sản xuất giao việc cho từng nhóm xã viên ra đồng làm nhiệm vụ. Hợp tác xã giao khoán cho xã viên hoàn thành cày 1 sào ruộng sẽ được tính 5 điểm (1 điểm tương ứng với 1 công), cấy 1 sào được tính 20 điểm...

Cụ Nguyễn Đăng Giác, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ nhớ rõ những ký ức về sản xuất thời bao cấp

Cụ Nguyễn Đăng Giác, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp xã Ngọc Kỳ nhớ rõ những ký ức về sản xuất thời bao cấp

Sản xuất nông nghiệp thời bao cấp ở xã Ngọc Kỳ nói riêng, các địa phương khác nói chung bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế: công cụ, phương tiện sản xuất còn sơ sài, lạc hậu. Mọi công đoạn sản xuất đều thủ công. Phần lớn diện tích chỉ cấy 2 vụ lúa/năm, cơ cấu giống tuy nhiều nhưng chất lượng, năng suất đều kém, thường chỉ đạt từ 80-100kg/sào/vụ. Cây trồng chủ yếu là ngô, khoai và một số rau ăn lá. Việc sản xuất dựa nhiều vào thiên nhiên, kinh nghiệm. Công tác dự tính, dự báo thời tiết hạn chế dẫn đến nhiều vụ mất mùa do mưa bão...

Một bộ phận không nhỏ xã viên có tư tưởng ỷ lại, ít đề xuất sáng kiến. Nhiều hộ lười làm, ít công, rơi vào cảnh đói nghèo, hợp tác xã phải cho vay cứu trợ. "Bấy giờ năng suất, sản lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Vì thế công xã viên nhận được sau mỗi vụ sản xuất rất thấp, không đủ ăn...", cụ Giác kể.

Đột phá

Cơ giới hóa ngày càng được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương

Cơ giới hóa ngày càng được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương

Sự đột phá của ngành nông nghiệp chỉ thực sự bắt đầu kể từ khi Ban Bí thư Trung ương Đảng Ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13/10/1981 “Về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” (còn gọi là khoán 100).

Chỉ thị 100 là bước đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nông dân đã được hợp tác xã giao khoán diện tích, tự sản xuất và được hưởng sản lượng vượt khoán sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp sản lượng theo định mức đã quy định.

Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (còn gọi là khoán 10). Nghị quyết này đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là bảo đảm lợi ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với người trồng lúa. Nông dân được giao ruộng, tự chủ sản xuất.

Nhớ lại thời điểm khoán 10 được triển khai, ông Hoàng Anh Thư, hiện là Phó Giám đốc Hợp tác xã Tân Minh Đức, xã Phạm Trấn (Gia Lộc) cho biết bấy giờ bà con ai cũng phấn khởi và tập trung đầu tư vào thửa ruộng nhà mình. Ở nơi ông sinh sống, nông dân bảo nhau "muốn no phải cấy lúa, muốn giàu trồng cây vụ đông".

Năng suất lúa vụ đầu tiên sau khi nông dân được giao ruộng đạt 200-300 kg/sào, cao gấp đôi so với những năm trước đó. Giá trị cây vụ đông cao gấp 4-5 lần cấy lúa. Từ chỗ phải ăn độn, các gia đình bắt đầu có tích trữ, dần dà quan tâm đầu tư sản xuất nâng cao sản lượng.

Xã Phạm Trấn (Gia Lộc) là điểm sáng trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hải Dương. Nông dân nơi đây đã thuần thục trong việc điều hành sản xuất bằng công nghệ

Xã Phạm Trấn (Gia Lộc) là điểm sáng trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hải Dương. Nông dân nơi đây đã thuần thục trong việc điều hành sản xuất bằng công nghệ

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn những năm sau đó từng bước tạo ra những đột phá trong sản xuất nông nghiệp ở Hải Dương.

Theo ông Lê Thái Nghiệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, từ năm 2013, Hải Dương bắt đầu đẩy mạnh dồn ô, đổi thửa, hình thành các vùng chuyên canh tập trung, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi. Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp cũng dần phát triển trong tất cả quy trình sản xuất.

Đến hết năm 2024, tất cả diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh được cày bằng máy, 95% diện tích lúa được gặt bằng máy. Nhiều nơi trong tỉnh bắt đầu áp dụng máy bay không người lái vào khâu phun thuốc phòng trừ sâu bệnh cho lúa. Khoảng 1.000 ha đất sản xuất cây trồng áp dụng công nghệ tưới tự động.

Nhiều giống lúa mới chất lượng cao được khảo nghiệm, nhân rộng trên khắp các cánh đồng trong tỉnh. Năng suất lúa ở Hải Dương đã tăng từ 58,76 tạ/ha (năm 2013) lên gần 63 tạ/ha (năm 2024). Toàn tỉnh hình thành nhiều vùng sản xuất cây trồng chủ lực như hành, tỏi, cà rốt, cải bắp, ổi, vải, na... Giá trị sản xuất các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản tăng dần theo từng năm.

Toàn tỉnh có khoảng 92 ha nhà màng, hàng chục vùng trồng các loại nông sản đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của khoa học - công nghệ, sự quan tâm của Nhà nước và của tỉnh, nông dân trong tỉnh đã thay đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp bằng việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tạo ra giá trị cao, bền vững hơn.

Hải Dương hiện đang được biết đến như "cái nôi" của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.

Những mô hình hay

Ông Nguyễn Văn Nhiệt ở xã Đức Chính (Cẩm Giàng) có 4 khu ruộng trồng cà rốt xuất khẩu ngoài đê sông Thái Bình cho biết đã áp dụng công nghệ này từ vài năm nay. Công tắc tắt, mở và điều chỉnh áp suất nước trên máy bơm được kết nối với một chiếc điều khiển cầm tay. "Trước kéo dây tưới nước cho 4 khu ruộng này phải mất 2 ngày. Giờ có công nghệ hiện đại hỗ trợ nên ngồi ở nhà tôi cũng có thể kích hoạt hệ thống bơm tự động ngoài đồng vì điều khiển có tác dụng lên tới 1km".

Nông dân xã Đức Chính (Cẩm Giàng) tưới nước cho diện tích trồng cà rốt xuất khẩu bằng điều khiển cầm tay

Nông dân xã Đức Chính (Cẩm Giàng) tưới nước cho diện tích trồng cà rốt xuất khẩu bằng điều khiển cầm tay

Hầu hết nhà màng ở các địa phương trong tỉnh đã áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel giúp tiết kiệm nước. Hệ thống dây dẫn nước được kết nối từ máy bơm đến từng gốc cây trồng. Nông dân có việc đi ra tỉnh ngoài vẫn có thể theo dõi nhà màng sản xuất qua các hệ thống camera, điều khiển tưới nước qua phần mềm cài đặt trên điện thoại. Cái hay của công nghệ này là có thể hẹn giờ, điều khiển áp lực nước ngay từ trên điện thoại.

Hàng chục hộ nuôi cá lồng trên sông Luộc thuộc địa phận xã Hà Thanh (Tứ Kỳ) cũng áp dụng công nghệ cho ăn từ xa. Ông Đào Minh Thiêm, Chủ tịch Hiệp hội Cá lồng xã Hà Thanh cho biết bằng việc điều khiển phần mềm cài sẵn trên điện thoại, người chăn nuôi dễ dàng điều khiển máy "bắn cám" xuống các lồng nuôi cá chỉ bằng một vài thao tác.

TIẾN MẠNH

Nguồn Hải Dương: https://baohaiduong.vn/khong-con-danh-keng-ghi-ten-nong-dan-dieu-hanh-san-xuat-tu-xa-400963.html
Zalo