Khó khăn nhiều - Cơ hội lớn
Ngành tôm những năm qua tuy có tăng trưởng nhưng nhìn chung còn chậm và thiếu ổn định. Đó là do vẫn còn một số khó khăn chưa được giải quyết dứt điểm, nhất là về con giống kém chất lượng, là môi trường ngày càng ô nhiễm và dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp… Tất cả làm cho tỷ lệ thành công thấp dẫn đến giá thành sản xuất tôm Việt Nam cao hơn các nước, hiệu quả ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng, tính cạnh tranh của ngành tôm bị giảm sút.
Nói đến khó khăn của ngành tôm thì có nhiều và có thể nói cái khó lớn nhất, dai dẳng nhất lại tập trung phần lớn ngay từ khâu đầu vào, chủ yếu đến từ con giống, môi trường và quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Chính sự dai dẳng của những khó khăn trên đã làm cho tỷ lệ tôm nuôi thành công thấp, giá thành cao, tính cạnh tranh bị giảm sút và quan trọng hơn là hiệu quả và tốc độ tăng trưởng của ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng. Đây đều là những vấn đề lớn và khó mà ngành tôm cần giải quyết để đạt mục tiêu tăng tốc trong năm 2025 và duy trì tốc độ tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030.

Nếu khắc phục được những khó khăn nội tại, cơ hội cho ngành tôm tăng tốc trong năm 2025 là rất lớn. Ảnh: TÍCH CHU
Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cả nước còn khoảng 19,3% cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm giống chưa được kiểm tra cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản và một số cơ sở chưa đủ điều kiện sản xuất vẫn được cấp chứng nhận kiểm dịch, nguy cơ gây bùng phát dịch bệnh. Với thực trạng trên, theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, tình trạng tôm giống nhiễm bệnh, tôm kém chất lượng vẫn được xuất về vùng nuôi đã làm phát sinh dịch bệnh, làm chậm tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi, dẫn đến tỷ lệ nuôi thành công thấp, giá thành cao và phát sinh ô nhiễm môi trường ngày càng lớn hơn.
Liên quan đến con giống, thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đảm bảo hoàn thành kế hoạch vụ tôm năm 2025. Theo đó, đơn vị tiếp tục tăng cường quản lý và kiểm tra chất lượng giống tôm; tổ chức đánh giá, kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện cho cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm, cơ sở sản xuất thức ăn, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường, xử lý nghiêm các cơ sở không tuân thủ quy định. Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức đợt cao điểm kiểm tra, thanh tra tại các tỉnh trọng điểm, các cơ sở sản xuất giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi thủy sản để xử lý tận gốc các cơ sở vi phạm chất lượng, điều kiện sản xuất.
Thực tế cho thấy, ô nhiễm tại một số vùng nuôi đang ngày càng nghiêm trọng, khiến cho việc nuôi tôm cũng ngày một khó khăn hơn, tôm thiệt hại do môi trường ngày càng nhiều hơn. Minh chứng cho khó khăn này, trong báo cáo tình hình thiệt hại tôm nuôi năm 2024, Cục Thủy sản cho biết con số tôm nuôi thiệt hại do môi trường chiếm hơn 70% tôm nuôi bị thiệt hại. Bên cạnh ý thức bảo vệ môi trường của người nuôi còn hạn chế, do quá trình sản xuất và sinh hoạt, do thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp… thì tình trạng ô nhiễm môi trường vùng nuôi còn do phần lớn hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm chưa đảm bảo và không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật nuôi tôm.
Theo chỉ đạo của Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, khâu nuôi là khâu quan trọng nhất, có tính quyết định, nhưng cũng đang là khâu yếu nhất trong chuỗi giá trị ngành tôm nên các giải pháp cần hướng về vùng nuôi, người nuôi nhiều hơn, trong đó, giải pháp về tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết chuỗi cần đặc biệt được quan tâm. Theo Thứ trưởng, việc hợp tác, liên kết thời gian qua vẫn còn hết sức khó khăn mà nguyên nhân là các bên tham gia chưa thể tìm tiếng nói chung. Trong khi đó, sản xuất ngày một khó khăn hơn, thị trường yêu cầu ngày một khắt khe hơn nên nếu chúng ta không tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết trên cơ sở hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro của các bên liên quan thì sẽ rất khó đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này.
Tuy có khó khăn, nhưng ngành tôm năm nay cho thấy đã có những tín hiệu tích cực hơn như: sự phục hồi của một số thị trường chính (Mỹ, Nhật, EU) và cùng với đó là những thay đổi chính sách thuế của Mỹ đối với một số nước có thể là cơ hội cho Việt Nam ở các thị trường lớn. Kết quả sau 2 tháng đầu năm cũng phần nào minh chứng cho những dự báo trên, khi kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước đạt trên 542 triệu USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ. Riêng tại tỉnh xuất khẩu tôm trọng điểm Sóc Trăng, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm ghi nhận ở mức 143 triệu USD, tăng 17,04% so với cùng kỳ và đóng góp hơn 26% vào kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước.
Lý giải thêm về nguyên nhân khởi sắc trong xuất khẩu tôm, theo bà Trần Thụy Quế Phương - Chánh Văn phòng Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP cho biết, đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp cũng như chuyên gia vẫn chưa thể đoán định được các chính sách thuế quan mới của Mỹ sẽ áp đặt đối với các nước (trong đó có Việt Nam) như thế nào trong thời gian tới. Do đó, trong 2 tháng qua, cả doanh nghiệp xuất khẩu lẫn các nhà nhập khẩu Mỹ đều tranh thủ đẩy mạnh mua bán trước khi các chính sách thuế quan mới được thực thi. Điều này chính là một phần nguyên nhân giúp xuất khẩu thủy sản duy trì đà tăng trưởng trong 2 tháng qua và thậm chí khả năng còn kéo dài trong vài tháng tới.
Như vậy có thể thấy, cơ hội cho ngành tôm trong năm 2025 là khá rõ ràng và nếu ngành tôm khắc phục tốt khó khăn nội tại, phát huy dư địa sản lượng từ các mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao thì mục tiêu tăng tốc trong năm 2025 là hoàn toàn khả thi.