Khai khoáng cần cải cách lớn về thuế
Ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, khung chính sách tài chính hiện nay đối với hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang bộc lộ không ít bất cập.
Thực trạng “thuế chồng thuế”
Phát biểu tại Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản”, diễn ra mới đây, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất kìm hãm sự phát triển của ngành khai khoáng Việt Nam hiện nay là tình trạng “chồng thuế” và gánh nặng nghĩa vụ tài chính quá cao. Các doanh nghiệp khai khoáng phải cùng lúc thực hiện 2 nghĩa vụ tài chính lớn: nộp thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010 (tiếp tục được duy trì trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024). Việc áp dụng đồng thời các cơ chế này dẫn đến chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp cả về pháp lý lẫn kinh tế.
Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, tổng nghĩa vụ tài chính có thể chiếm tới 30-40% doanh thu, cao hơn nhiều so với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, các nước có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một loại thuế tài nguyên (royalty) kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, với mức tổng thể thấp hơn đáng kể. VCCI cảnh báo, sự chồng lấn hiện nay đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, và làm méo mó động lực đầu tư vào khai thác, chế biến sâu đi ngược lại định hướng trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials nêu thực trạng chính sách thuế và phí thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp gặp khó khăn. Trước khi đầu tư (năm 2010), thuế tài nguyên dưới 10%, nhưng sau khi đi vào hoạt động, thuế tăng lên 6-25%. Cùng với việc bổ sung tiền cấp quyền khai thác (2013), phí bảo vệ môi trường (2016) và nhiều loại thuế khác, tổng gánh nặng thuế phí hiện chiếm 24-26% doanh thu (chưa gồm thuế thu nhập doanh nghiệp). Ông Thắng nhấn mạnh, các khoản thu này là “thuế chồng thuế”, đánh trùng vào cùng một đối tượng tài nguyên, chiếm riêng khoảng 10-15% doanh thu.

Cần một cơ chế thuế - phí hợp lý để khai thác khoáng sản hiệu quả và phát triển bền vững
Cần thống nhất nghĩa vụ tài chính và cải cách chính sách thuế
Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái chính sách tài chính đồng bộ và linh hoạt cho ngành khai khoáng, nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ hiện đại, khai thác tiết kiệm tài nguyên và phục hồi môi trường sau khai thác.
TS. Nguyễn Tiến Chỉnh, Trưởng Ban Khoa học Công nghệ - Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam cho rằng, chính sách thuế, phí trong ngành khai khoáng phải hợp lý, minh bạch và có tính khuyến khích đầu tư, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách, vừa “nuôi dưỡng” nguồn thu lâu dài và phát triển bền vững. Ông đề xuất gộp thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thành một loại thuế duy nhất do Bộ Tài chính quản lý, giúp tính đúng, tính đủ thuế suất, giảm thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Đồng thời, việc hoàn thiện thể chế tài chính về tài nguyên cần sự đồng thuận và hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, phù hợp với định hướng phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước.
Từ thực tế quản lý, ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cấp cao về thuế và quản trị doanh nghiệp cho rằng, cần sửa đổi Luật Thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường, đơn giản hóa quy định, áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, khai thác hiệu quả và bảo vệ môi trường.
Từ thực tế này, VCCI đề xuất xác định lại bản chất pháp lý và xem xét hợp nhất hai nghĩa vụ trên thành một loại thuế tài nguyên thống nhất, do Bộ Tài chính quản lý để tránh chồng chéo, đồng thời giảm thủ tục hành chính và đảm bảo tính cạnh tranh. Ngoài ra, cần thiết kế lại chính sách ưu đãi tài chính cho các mỏ nghèo, khu vực khai thác khó, và khuyến khích các dự án chế biến sâu, tận thu tài nguyên. VCCI cũng nhấn mạnh phải nâng cao tính minh bạch và quản trị nguồn thu, cân nhắc tham gia Sáng kiến Minh bạch trong ngành khai thác (EITI) nhằm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy ngành khai khoáng phát triển bền vững và cạnh tranh quốc tế.