Hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, trách nhiệm với môi trường
Sáng 22-10, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố đề án 'Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050'.
Sự kiện này nhằm đánh dấu bước đi cụ thể hóa cam kết của Việt Nam trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), thể hiện quyết tâm của ngành Nông nghiệp trong việc đạt mục tiêu giảm phát thải 30% khí nhà kính vào năm 2030, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và có trách nhiệm với môi trường toàn cầu.
Bảo đảm năng suất, giá trị và giảm phát thải nhà kính
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung nhấn mạnh, đề án được ban hành đúng thời điểm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ngành trồng trọt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hội nhập sâu vào thị trường quốc tế. Mục tiêu trọng tâm của đề án là vừa bảo đảm tăng trưởng về năng suất và giá trị, vừa giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn.
Theo đó, đề án tập trung vào 6 nhóm nhiệm vụ lớn, bao gồm tái cơ cấu cây trồng phù hợp điều kiện sinh thái và nhu cầu thị trường; xây dựng và áp dụng các gói kỹ thuật giảm phát thải theo chuỗi giá trị; hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) phục vụ kiểm kê khí nhà kính; triển khai các mô hình sản xuất thực hành tốt; đồng thời tạo dựng cơ chế tín chỉ carbon trong nông nghiệp, nhằm thu hút đầu tư và khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia.

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường
Dự thảo Kế hoạch hành động có 31 nhóm nhiệm vụ cụ thể, trong đó yêu cầu các địa phương khảo sát kỹ hiện trạng sản xuất, phát thải, điều kiện sinh thái - xã hội để chủ động xây dựng phương án giảm phát thải phù hợp thực tiễn. Việc triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương sẽ là nền tảng để ngành trồng trọt đạt mục tiêu giảm phát thải bền vững, tiến tới trung hòa carbon vào giữa thế kỷ.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung phát biểu khai mạc hội nghị. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường
Chia sẻ về dự thảo kế hoạch hành động thực hiện mục tiêu giảm phát thải trong trồng trọt, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương cho rằng, trồng trọt giảm phát thải không chỉ góp phần thực hiện cam kết quốc gia về khí hậu, mà còn hướng tới một nền nông nghiệp thích ứng, nâng cao giá trị và bảo vệ môi trường sống của người dân.
Tuy nhiên, mọi kế hoạch hành động cần lấy người nông dân làm trung tâm, bởi họ là những người trực tiếp thực hiện, hiểu rõ nhất thực tế sản xuất cũng như chịu tác động trực tiếp từ biến đổi khí hậu.
Hà Nội hiện có hơn 160.000ha lúa, hơn 20.000ha cây ăn quả, hơn 30.000ha rau màu và hàng chục nghìn héc-ta chè, cây cảnh. Gần một nửa đơn vị cấp xã của thành phố vẫn còn hoạt động nông nghiệp, cho thấy vai trò quan trọng của lĩnh vực này trong cơ cấu kinh tế và sinh kế nông thôn.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường
“Một trong những thành tựu nổi bật là nhiều vùng lúa tại Hà Nội đã áp dụng phương pháp canh tác cải tiến SRI, giúp giảm lượng giống, nước tưới và phân bón nhưng vẫn tăng năng suất. Không ít khu vực, người dân đã chủ động chuyển sang sản xuất hữu cơ, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần xây dựng hình ảnh nông nghiệp Thủ đô xanh và an toàn hơn…”, ông Nguyễn Mạnh Phương cho biết thêm.

Một trong những thành tựu nổi bật là nhiều vùng lúa tại Hà Nội đã áp dụng phương pháp canh tác cải tiến SRI. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường
Còn theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp Lê Chí Thiện, thời gian qua, Đồng Tháp đã tiên phong triển khai 21 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao giảm phát thải, giúp giảm 20-30% lượng nước tưới, tiết kiệm 15% chi phí và cắt giảm đáng kể lượng khí metan phát thải ra môi trường. Người dân và hợp tác xã trong tỉnh còn tận dụng vỏ trấu sản xuất biogas, dùng phụ phẩm làm phân hữu cơ, hướng tới nền nông nghiệp tuần hoàn, hiệu quả. Đặc biệt, tỉnh đã phối hợp với các tổ chức quốc tế phát triển mô hình lúa sinh thái và chuyển đổi các diện tích kém hiệu quả sang mô hình sản xuất giảm phát thải.
Cần ưu tiên các nhóm cây trồng chủ lực
Chia sẻ về những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm Đề án được triển khai hiệu quả, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Thủy, đại diện Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu giảm 15% phát thải khí nhà kính đến năm 2050, cần lượng hóa rõ ràng các nhiệm vụ và mục tiêu của từng hợp phần trong Đề án. Do đó, cần ưu tiên các nhóm cây trồng chủ lực sẽ giúp tập trung nguồn lực, tạo chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn đầu thực hiện.
Đối với kế hoạch xây dựng 15 mô hình sản xuất có khả năng tạo tín chỉ carbon cần xác định rõ quy mô, địa bàn và chỉ tiêu định lượng để bảo đảm tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực tế. Bên cạnh đó, các mô hình thí điểm sản xuất giảm phát thải nên được thiết kế theo đặc thù vùng sinh thái Bắc Trung Nam, trong đó tập trung vào nhóm cây trồng chủ lực, nhằm phát huy tối đa tiềm năng giảm phát thải và khả năng nhân rộng về sau.

Ứng dụng drone trong giám sát cây trồng. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho rằng, để đề án phát huy hiệu quả cần xây dựng và ban hành gói kỹ thuật để chuyển giao cho các địa phương, đây là nền tảng quan trọng giúp các tỉnh, thành phố có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng.
Trước mắt, gói kỹ thuật nên tập trung vào các nhóm cây trồng chủ lực, vừa giúp tạo tác động lớn, vừa thuận lợi trong việc nhân rộng. Gói kỹ thuật cần kế thừa những kết quả đã được kiểm chứng trong các chương trình trước đây. Chẳng hạn, dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) từng hỗ trợ tái canh cây lúa, cà phê rất hiệu quả, giúp 180.000ha lúa áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, tiết kiệm nước, giảm phát thải khí nhà kính.
Từ nền tảng đó, Việt Nam đã phát triển thành đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao và phát thải thấp đang được triển khai tại Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Một hướng đi cần được quan tâm nữa là mô hình nông lâm kết hợp, vốn đã chứng minh tính hiệu quả tại khu vực Tây Bắc. Đây cũng là xu thế chung của thế giới trong nỗ lực giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp.
Việc nhân rộng mô hình này không chỉ giúp giảm khí nhà kính, mà còn cải thiện sinh kế, chống xói mòn đất và tăng khả năng hấp thụ carbon của rừng trồng. Khi triển khai các mô hình tại địa phương, cần lồng ghép hoạt động tập huấn và truyền thông ngay từ đầu, giúp nông dân hiểu, tin và sẵn sàng áp dụng.
“Mô hình phải thiết kế sao cho khi xây dựng xong có thể chuyển đổi sản xuất ngay trên diện rộng. Mục tiêu đến năm 2050 là 100% cây trồng chủ lực của Việt Nam áp dụng biện pháp giảm phát thải”, ông Lê Quốc Doanh nhấn mạnh.