Hoàn thiện khung pháp lý, tránh bỏ lỡ cơ hội về thuế với tài sản mã hóa
Trao đổi với phóng viên về tài sản mã hóa, TS. Chu Thanh Tuấn - Phó Chủ nhiệm nhóm ngành cử nhân Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam cho rằng, việc Chính phủ giao Bộ Tài chính gấp rút hoàn thiện khung pháp lý là một động thái tích cực để nắm bắt cơ hội thuế từ tài sản mã hóa. Khi chính sách được ban hành, mỗi năm ngân sách có thể thu về 800 triệu USD mỗi năm. Ngoài ra, các loại thuế khác như thuế thu nhập cá nhân đối với lợi nhuận nhà đầu tư, thuế thu nhập doanh nghiệp từ sàn giao dịch, thuế giá trị gia tăng đối với các dịch vụ liên quan đến tiền mã hóa đều có thể trở thành nguồn thu quan trọng.

Việt Nam hiện nằm trong top 5 toàn cầu về mức độ phổ biến tiền mã hóa, với hơn 17 triệu người dùng và tổng giá trị giao dịch ước đạt trên 100 tỷ USD mỗi năm.
PV: Ông đánh giá thế nào về tiềm năng về thuế đối với tài sản mã hóa tại Việt Nam?

TS. Chu Thanh Tuấn: Theo báo cáo mới nhất của Chainalysis (2024), Việt Nam hiện nằm trong top 5 toàn cầu về mức độ phổ biến tiền mã hóa, với hơn 17 triệu người dùng và tổng giá trị giao dịch ước đạt trên 100 tỷ USD mỗi năm. Điều này cho thấy tiềm năng thu ngân sách nhà nước từ hoạt động này là vô cùng lớn.
Chỉ tính riêng thuế giao dịch với mức thuế suất nhỏ 0,1% tương tự thị trường chứng khoán, Nhà nước có thể thu về trên 800 triệu USD mỗi năm. Ngoài ra, các loại thuế khác như thuế thu nhập cá nhân (PIT) đối với lợi nhuận nhà đầu tư, thuế thu nhập doanh nghiệp (CIT) từ sàn giao dịch, thuế giá trị gia tăng đối với các dịch vụ liên quan đến tiền mã hóa đều có thể trở thành nguồn thu quan trọng. Tiền mã hóa không còn là công cụ đầu cơ đơn thuần. Sự phát triển mạnh mẽ của DeFi, NFT, stablecoin và các ứng dụng blockchain đã biến lĩnh vực này thành một hệ sinh thái kinh tế số đa dạng, đòi hỏi chính sách thuế linh hoạt và phù hợp.
PV: Có thể thấy tiềm năng là rất lớn và hiện Chính phủ đã giao Bộ Tài chính gấp rút hoàn thiện khung pháp lý về tài sản mã hóa. Ông đánh giá thế nào về động thái này, theo ông, Việt Nam liệu có đang bị lỡ cơ hội này về thuế với tài sản mã hóa so với khu vực?
TS. Chu Thanh Tuấn: Việt Nam hiện đang đối mặt với một khoảng trống pháp lý đáng kể trong việc quản lý và đánh thuế tài sản mã hóa. Mặc dù việc sở hữu và giao dịch tài sản mã hóa không bị coi là bất hợp pháp, nhưng việc sử dụng chúng như một phương tiện thanh toán đã bị Ngân hàng Nhà nước cấm. Sự thiếu rõ ràng trong định nghĩa và phân loại tài sản kỹ thuật số gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định thuế.
Việc Chính phủ giao Bộ Tài chính gấp rút hoàn thiện khung pháp lý là một động thái tích cực để nắm bắt cơ hội thuế từ tài sản mã hóa. Tuy nhiên, nếu chậm trễ trong việc ban hành khung pháp lý toàn diện có thể khiến Việt Nam bỏ lỡ cơ hội thu thuế so với các quốc gia trong khu vực đã có quy định rõ ràng hơn như Singapore, UAE hay Hong Kong.
Singapore đã ban hành luật rõ ràng về đăng ký sàn giao dịch và cho phép hoạt động tiền mã hóa dưới sự giám sát của MAS (Cơ quan Tiền tệ Singapore). Dubai thông qua Cơ quan quản lý tài sản ảo (VARA) đã triển khai khung pháp lý từ 2022. Hong Kong hiện miễn thuế lãi vốn cho quỹ đầu tư tiền mã hóa. Năm 2024, Thái Lan miễn thuế thu nhập cho các token đầu tư đã chịu thuế lợi nhuận vốn 15%. Chính phủ cũng đưa ra các ưu đãi thuế trị giá 1 tỷ USD để thúc đẩy đầu tư và đổi mới trong lĩnh vực tài sản mã hóa.
Nếu chậm trễ, Việt Nam có nguy cơ đánh mất dòng vốn đầu tư, tài năng công nghệ và nguồn thu thuế đáng kể. Một số startup tiền mã hóa gốc Việt như Kyber Network hay Axie Infinity hiện đều đăng ký ở nước ngoài. Do đó, cần sớm ban hành khung pháp lý cho loại hình tài sản mã hóa này.
PV: Tiềm năng thu thuế đối với các giao dịch về tài sản mã hóa là rất lớn. Theo ông, cần làm gì để quản lý thuế hiệu quả với lĩnh vực tiềm năng này?
TS. Chu Thanh Tuấn: Để quản lý thuế hiệu quả đối với tài sản mã hóa, Việt Nam có thể xem xét các biện pháp sau:
Việt Nam có thể áp dụng mô hình thuế cân bằng: kết hợp thuế giao dịch nhỏ với thuế lợi nhuận vốn hợp lý, miễn thuế giá trị gia tăng và thu thuế doanh nghiệp từ các sàn giao dịch. Một khoản thuế giao dịch nhỏ (ví dụ: 0,1%) đối với các giao dịch có thể thu được doanh thu từ khối lượng lớn các giao dịch tài sản mã hóa trong khi có tác động tối thiểu đến hoạt động của hầu hết các nhà đầu tư. Đồng thời, đánh thuế lợi nhuận tài sản mã hóa dưới dạng thu nhập hoặc thu nhập từ vốn ở mức hợp lý (có thể phù hợp với mức thuế thu nhập từ vốn của cổ phiếu hoặc thuế thu nhập cá nhân) để đảm bảo công bằng với các loại tài sản khác.
Để quản lý thuế hiệu quả với lĩnh vực này, nên tận dụng cơ sở hạ tầng thuế hiện có. Thay vì đưa ra các loại thuế hoàn toàn mới, Việt Nam có thể tích hợp tài sản mã hóa vào hệ thống thuế hiện tại của mình. Ví dụ, sử dụng mô hình thị trường chứng khoán, trong đó một tỷ lệ phần trăm nhỏ thuế thu được từ việc bán được khấu trừ làm thuế cuối cùng – điều này đơn giản và đã được chứng minh trên thị trường chứng khoán của Việt Nam. Thu nhập tài sản mã hóa cá nhân có thể được báo cáo hàng năm tương tự như thu nhập từ vốn đối với bất động sản hoặc chứng khoán.
Cùng với đó, việc quản lý cần đảm bảo cơ chế thực thi mạnh mẽ, thông qua yêu cầu tuân thủ KYC (quy trình xác minh danh tính của khách hàng) toàn diện, báo cáo giao dịch từ các sàn giao dịch, hợp tác với các công ty phân tích blockchain và tham gia các nỗ lực quốc tế để trao đổi thông tin.
Ngoài ra, cần giảm thiểu tình trạng tháo chạy vốn và gián đoạn thị trường. Theo đó, các nhà hoạch định chính sách nên cảnh giác về tác động của luật đối với hành vi thị trường. Để giữ chân các nhà giao dịch trên nền tảng Việt Nam, tổng chi phí giao dịch (phí + thuế) phải cạnh tranh với việc sử dụng các giải pháp thay thế phi tập trung hoặc của nước ngoài. Nếu cần, Việt Nam có thể chặn các sàn giao dịch không có giấy phép và tạo điều kiện hấp dẫn. Chính phủ cũng có thể cân nhắc triển khai theo từng giai đoạn: ví dụ, bắt đầu với mức thuế suất thấp hoặc chỉ đánh thuế trên một số mức lợi nhuận nhất định và điều chỉnh khi thị trường trưởng thành.
Đồng thời, tối đa hóa các cơ hội doanh thu rộng hơn: Thiết lập chế độ cấp phép cho các sàn giao dịch, khuyến khích các công ty khởi nghiệp và dự án blockchain trong nước, và khám phá các nguồn thu đặc biệt như phí phát hành tài sản số.
Bằng cách kết hợp các biện pháp này, Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống quản lý thuế hiệu quả cho tài sản mã hóa, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, vừa thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
PV: Xin cảm ơn ông!
Xây dựng lộ trình rõ ràng cho sáng kiến sandbox
Theo TS. Phạm Nguyễn Anh Huy - Giảng viên cấp cao ngành Tài chính, đồng sáng lập Trung tâm Fintech-Crypto Đại học RMIT Việt Nam, việc thí điểm giao dịch tài sản mã hóa trong khuôn khổ sandbox trong tương lai gần có thể mang lại những hiểu biết quý giá và giúp Việt Nam khai thác lợi ích của tài chính số, với điều kiện là việc thí điểm phải được giám sát cẩn thận và có kế hoạch dự phòng rõ ràng cho những rủi ro phát sinh không lường trước. Cần xây dựng lộ trình triển khai phù hợp để kiểm soát rủi ro khi thí điểm trong sandbox.