Giải pháp phát triển chương trình giáo dục cho tương lai

Chương trình GDPT 2018 đã xác định rõ mục tiêu, chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về phẩm chất, năng lực cho từng môn học, cấp học...

Cô, trò Phenikaa School. Ảnh: NTCC

Cô, trò Phenikaa School. Ảnh: NTCC

Trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận 91/KL-TW, Đề án phát triển Chương trình GDPT giai đoạn 2026 - 2030, định hướng đến năm 2045, được xem là nhiệm vụ quan trọng.

Bài viết (với sự hỗ trợ của AI tạo sinh Gemini), sẽ thảo luận về cách áp dụng mô hình Agile trong đổi mới chương trình giáo dục trên thế giới, từ đó đề xuất một số khuyến nghị phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Đổi mới chương trình giáo dục và vấn đề đặt ra

Nghị quyết 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhấn mạnh việc phát triển chương trình giáo dục theo hướng chú trọng phẩm chất và năng lực người học.

Theo đó, Chương trình GDPT 2018 đã xác định rõ mục tiêu, chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về phẩm chất, năng lực cho từng môn học, cấp học. Chương trình được thiết kế mở, khuyến khích phương pháp dạy học tích cực, triển khai theo lộ trình từ năm học 2020 - 2021 (lớp 1) và hoàn tất một chu trình vào năm học 2024 - 2025 (lớp 5, 9, 12).

Giáo dục nghề nghiệp cũng điều chỉnh theo chuẩn đầu ra, dựa trên tiêu chuẩn kỹ năng nghề với sự tham gia của doanh nghiệp, đảm bảo liên thông giữa các trình độ đào tạo. Giáo dục đại học thì đa dạng hóa chương trình, kết hợp ý kiến từ nhà quản lý và tuyển dụng, tiếp cận chuẩn khu vực và quốc tế.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộc lộ nhiều vấn đề. Bài viết này tập trung vào câu hỏi: Làm sao để chương trình giáo dục sẵn sàng cho tương lai, trang bị cho người học phẩm chất và năng lực thành công trong một thế giới biến động khó lường?

Để trả lời câu hỏi này, Nghị quyết 29/NQ-TW đã đề cập đến hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, nhưng ngoài khái niệm “liên thông” được Luật Giáo dục 2019 làm rõ, đến nay chưa có cách hiểu chính thức về khái niệm “mở” và “linh hoạt”. Điều này kéo theo những bất cập sau đây về chương trình giáo dục.

Thứ nhất, với giáo dục phổ thông: Chương trình được gọi là “mở” khi trao quyền cho địa phương và nhà trường bổ sung nội dung phù hợp. Nội dung giáo dục địa phương được tích hợp ở tiểu học qua Hoạt động trải nghiệm, còn ở trung học chiếm 35/1.015 tiết mỗi năm (3,45%).

Tỷ lệ này quá nhỏ, hạn chế quyền chủ động của địa phương so với xu thế quốc tế. Nhà trường cũng thiếu thời lượng để tự điều chỉnh, cho thấy cách tiếp cận vẫn cứng nhắc, tập trung quyền lực ở cấp trên.

Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới đã chọn cách tiếp cận mở và linh hoạt theo hướng tập trung ban hành khung chương trình giáo dục cùng các tài liệu hướng dẫn kèm theo, mở ra không gian khoáng đạt cho địa phương, nhà trường, nhà giáo phát triển nội dung chương trình thích ứng và đáp ứng sự thay đổi.

Giáo dục nghề nghiệp: Khung Trình độ quốc gia Việt Nam (VQF) được ban hành từ năm 2016, nhưng kế hoạch triển khai cho giáo dục nghề nghiệp chỉ bắt đầu từ 2021. Có điều, theo kế hoạch triển khai này chuẩn đầu ra không có sự tham gia đầy đủ của doanh nghiệp, chủ yếu do các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự rà soát, điều chỉnh.

Thêm vào đó, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, dữ liệu giáo dục nghề nghiệp, hợp tác với doanh nghiệp và thông tin thị trường lao động còn nhiều hạn chế, bất cập, khiến chương trình thiếu cả tính mở và linh hoạt, khó đáp ứng nhu cầu kỹ năng mới, dẫn đến tình trạng vừa thiếu lao động có tay nghề, vừa thừa nhân lực không phù hợp.

Giáo dục đại học: Kế hoạch thực hiện VQF cho giáo dục đại học (2020 - 2025) đặt mục tiêu đến 2024, các cơ sở giáo dục đại học ban hành chương trình phù hợp chuẩn đầu ra và đến 2025 kết nối với Khung tham chiếu ASEAN (AQRF). Tuy nhiên, tiến độ chậm do công việc phức tạp, đòi hỏi phối hợp nhiều bên.

Chương trình giáo dục đại học vì thế thiếu tính mở và linh hoạt, kéo dài tình trạng đào tạo thiếu hụt kỹ năng và nhân lực có tay nghề trong những ngành nghề mới trước yêu cầu hội nhập và canh tân của nền kinh tế với sự ra đời của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tự do.

Nhìn chung, cả giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đối mặt hai thách thức lớn: Một là chuẩn đầu ra chưa phản ánh đúng nhu cầu thực tế, làm đứt gãy kết nối giữa đào tạo và sử dụng. Hai là quy trình xây dựng, thẩm định chương trình quá chặt chẽ và cứng nhắc, khiến nhà trường khó cập nhật kịp thời để sẵn sàng cho tương lai.

 TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến.

Áp dụng phương pháp Agile

Các chương trình giáo dục truyền thống, với cách phát triển tuyến tính, đang gặp khó khăn trong việc bắt kịp nhịp độ thay đổi theo cấp số nhân của bối cảnh kinh tế - xã hội. Hệ quả là chương trình giáo dục có nguy cơ trở nên lạc hậu, không còn đáp ứng được nhu cầu thực tế của người học và thị trường lao động. Trước thách thức này, việc đổi mới chương trình giáo dục trở thành vấn đề cấp thiết.

Để xây dựng chương trình giáo dục sẵn sàng cho tương lai, cần một hệ thống giải pháp toàn diện, từ chính sách, đội ngũ nhà giáo, hạ tầng vật chất đến công nghệ và dữ liệu. Giải pháp trọng tâm là áp dụng phương pháp Agile nhằm đảm bảo tính phản ứng, thích ứng và đáp ứng kịp thời trước bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi nhanh chóng.

Phương pháp Agile là tập hợp các nguyên tắc và thực hành, tập trung vào phát triển theo chu kỳ lặp, tinh thần hợp tác, tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh, đặt con người làm trung tâm. Các cách tiếp cận cụ thể như Scrum, Kanban hay Lean đã được áp dụng rộng rãi. Khi đưa vào giáo dục, Agile mang đến những thay đổi quan trọng:

Ưu tiên giá trị và đầu ra thực chất: Thay vì hướng tới một chương trình hoàn hảo ngay từ đầu, Agile tập trung vào các giá trị cốt lõi và nguyên tắc thiết yếu. Theo đó, nhà giáo và người học được đặt lên trên quản lý và cơ sở vật chất; năng lực và hợp tác được đề cao hơn sự tuân thủ và cạnh tranh; khả năng đáp ứng thị trường lao động vượt trên giáo trình và điểm số; thái độ, kỹ năng học tập được chú trọng hơn năng khiếu hay bằng cấp.

Phát triển theo chu kỳ lặp: Thay vì thiết kế toàn bộ chương trình một lần, Agile chia nhỏ quá trình thành các mô-đun hoặc đơn vị, phát triển qua các chu kỳ ngắn gọi là “sprint”. Mỗi sprint bao gồm các bước: Đặt mục tiêu, lập kế hoạch, thiết kế, triển khai, thử nghiệm và phản hồi. Kết quả từ mỗi chu kỳ là cơ sở để điều chỉnh linh hoạt cho chu kỳ tiếp theo, phù hợp với thực tế.

Hợp tác đa bên: Agile khuyến khích sự tham gia chặt chẽ của các bên liên quan - từ nhà thiết kế chương trình, nhà giáo, người học, đến nhà quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng. Sự hợp tác này đảm bảo chương trình thiết thực, thích ứng tốt với nhu cầu mới và đa dạng. Đặc biệt, ý kiến của người học và doanh nghiệp được tích hợp hiệu quả qua các vòng phản hồi.

Tăng tính linh hoạt và phản ứng nhanh: Agile giúp chương trình giáo dục thích ứng với các xu hướng mới, công nghệ hiện đại, thay đổi chính sách hay phản hồi từ thực tiễn, tránh nguy cơ lỗi thời.

Việc áp dụng phương pháp Agile trong đổi mới chương trình giáo dục mang lại nhiều lợi ích thiết thực, cụ thể như sau:

Tăng tính linh hoạt: Chương trình dễ dàng thích nghi với bối cảnh thay đổi, đáp ứng nhu cầu mới của người học và thị trường lao động.

Thử nghiệm hiệu quả: Agile tạo khuôn khổ để thử các tài liệu và phương pháp giảng dạy, tìm ra cách tiếp cận tốt nhất.

Thúc đẩy hợp tác: Phương pháp này xây dựng văn hóa giao tiếp giữa nhà giáo, người học, phụ huynh, doanh nghiệp và cộng đồng.

Cải tiến liên tục: Agile giúp nâng cao chất lượng dạy học, giảm tình trạng thiếu hụt kỹ năng ở giáo dục nghề nghiệp và đại học.

Tuy nhiên, việc triển khai Agile cũng đối mặt với không ít thách thức. Trước hết là sự bảo thủ trong giáo dục, khi tư duy truyền thống đã ăn sâu, khiến nhiều người ngại thay đổi. Thứ hai, Agile đòi hỏi nguồn lực lớn về tài chính, kỹ năng mới, thời gian và công sức để duy trì sự thích ứng và cải tiến liên tục.

Thứ ba, cách làm theo chu kỳ lặp và phản hồi nhanh của Agile dễ xung đột với hệ thống quản lý thứ bậc truyền thống, cũng như các quy định khắt khe về bảo đảm và kiểm định chất lượng. Do đó, cần cân bằng giữa tính linh hoạt của đổi mới và tính ổn định của chương trình cùng trách nhiệm giải trình theo các tiêu chuẩn đánh giá.

Cuối cùng, Agile gắn chặt với công nghệ số - từ hệ thống quản lý học tập (LMS), nền tảng trực tuyến, đến dữ liệu lớn và AI. Điều này đặt ra thách thức lớn: Phải nâng cấp hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu, phần mềm và năng lực công nghệ để biến phương pháp này thành hiện thực.

Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học máy tính, kỹ thuật và kinh doanh tiên phong áp dụng phương pháp Agile. Cách tiếp cận này thường được sử dụng để thiết kế lại khóa học hoặc toàn bộ chương trình, với sự hợp tác của doanh nghiệp nhằm đảm bảo nội dung phù hợp với nhu cầu thị trường lao động.

Cách làm phổ biến bao gồm phát triển từng bước các mô-đun học trực tuyến, triển khai nhanh chương trình mẫu cho các môn học liên ngành, hoặc đồng sáng tạo nội dung cùng sinh viên.

Ở giáo dục nghề nghiệp và các trung tâm đào tạo tại doanh nghiệp, Agile ngày càng được ưa chuộng. Phương pháp này giúp chương trình đào tạo gắn chặt với yêu cầu thực tế, dễ dàng cập nhật theo biến động của thị trường. Điểm mạnh của Agile nằm ở sự tập trung vào kỹ năng thực hành và vòng phản hồi nhanh, giúp các khóa học kịp thời đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về kỹ năng lao động.

Tuy nhiên, trong giáo dục phổ thông, việc áp dụng Agile còn khá dè dặt. Một số nhóm giáo viên đã thử nghiệm, dựa trên dữ liệu và phản hồi về kết quả học tập của học sinh, để cùng nhau thiết kế giáo án, đơn vị học tập hoặc mô-đun dự án theo từng bước lặp.

Cách làm này trao quyền cho giáo viên như những nhà thiết kế chương trình, linh hoạt điều chỉnh tài liệu theo tình hình lớp học. Dù vậy, mô hình này chỉ dừng ở giai đoạn thử nghiệm, khó nhân rộng do vướng các kỳ thi chuẩn hóa và yêu cầu chương trình thống nhất.

 Học sinh Trường THPT Minh Đài (Phú Thọ) thể dục giữa giờ. Ảnh: NTCC

Học sinh Trường THPT Minh Đài (Phú Thọ) thể dục giữa giờ. Ảnh: NTCC

Khuyến nghị cho Việt Nam

Dưới đây là các khuyến nghị cụ thể cho Việt Nam trong áp dụng phương pháp Agile:

Đối với Bộ GD&ĐT, cần xây dựng đề án quốc gia tích hợp Agile vào giáo dục, với mục tiêu, lộ trình rõ ràng cho giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và đại học; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về Agile cho cán bộ quản lý và nhà giáo ở mọi cấp học và trình độ; thử nghiệm Agile tại một số cơ sở giáo dục, điều chỉnh trước khi nhân rộng.

Bộ GD&ĐT cũng cần thúc đẩy hợp tác giữa cơ sở giáo dục, doanh nghiệp và đối tác quốc tế để chia sẻ kinh nghiệm áp dụng Agile; điều chỉnh chính sách, quy định để tạo điều kiện cho đổi mới giáo dục theo hướng Agile; xây dựng khung đánh giá hiệu quả của Agile dựa trên kết quả học tập, sự hài lòng của nhà giáo và khả năng đáp ứng của hệ thống.

Cũng cần quan tâm phát triển công cụ kỹ thuật số hỗ trợ giảng dạy và học tập theo Agile; tài trợ nghiên cứu về ứng dụng Agile trong giáo dục Việt Nam để có cơ sở thực tiễn; tổ chức hội thảo, diễn đàn nâng cao nhận thức và tạo đồng thuận về lợi ích của Agile.

Đối với các cơ sở giáo dục, cần khuyến khích nhà giáo và cán bộ quản lý thử nghiệm, cải tiến liên tục; trao quyền cho nhà giáo áp dụng Agile trong thiết kế chương trình, giảng dạy và đánh giá. Thành lập nhóm làm việc đa chức năng (nhà giáo, nhà quản lý, người học, doanh nghiệp) để cùng đổi mới chương trình giáo dục.

Thu thập phản hồi thường xuyên từ người học và các bên liên quan để cải thiện chương trình và đầu tư đào tạo nhà giáo, cán bộ quản lý về Agile. Cơ sở giáo dục cũng cần quan tâm áp dụng công cụ quản lý dự án Agile vào các sáng kiến giáo dục; hợp tác với doanh nghiệp để đảm bảo chương trình đào tạo phù hợp nhu cầu thị trường lao động.

Trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận 91/KL-TW, Đề án phát triển Chương trình GDPT giai đoạn 2026 - 2030, định hướng đến năm 2045, được xem là nhiệm vụ quan trọng.

Đề án này đặt ra yêu cầu xây dựng chương trình giáo dục phù hợp với bối cảnh mới, khác biệt so với Chương trình GDPT 2018. Sự khác biệt nằm ở tốc độ thay đổi nhanh chóng và khó lường của bối cảnh giáo dục ngày nay, do tác động mạnh mẽ từ sự bùng nổ công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), cùng nhu cầu ngày càng cao về một lực lượng lao động sở hữu kỹ năng thế kỷ 21.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/giai-phap-phat-trien-chuong-trinh-giao-duc-cho-tuong-lai-post728672.html
Zalo