Đừng để lời nói tiêu cực định nghĩa bạn!
Rối loạn lo âu xã hội (Social Anxiety Disorder - SAD) làm ảnh hưởng đến khoảng 4% dân số nói chung, nhưng tỷ lệ này có thể lên đến 36% ở nhóm người từ 16-29 tuổi. Rối loạn thường khởi phát từ thời niên thiếu hoặc giai đoạn đầu trưởng thành. Các triệu chứng SAD có thể bộc lộ rõ ràng trong môi trường công việc, đặc biệt khi cá nhân từng trải qua những tình huống bị phê bình hoặc thất bại.

1. Con đã từng là một thủ lĩnh trong tổ chức của mình. Một lần nào đó, con mắc lỗi lầm và nhận một vài nhận xét tiêu cực. Con bắt đầu hoài nghi chính bản thân mình, và vì điều này, con dần mất tự tin. Lâu dần, con gục ngã. Con sợ gặp những người đã chỉ trích con, con sợ gặp luôn những người khác trong tổ chức. Mỗi khi gặp họ, con cảm thấy mất đi sự tự tin đã có, con thấy mình là một người hèn nhát, bất tài, vô dụng...
2. Anh vẫn đang là một trưởng phòng trong một tổ chức lớn. Trước đây, có một lần hội nghị do anh chịu trách nhiệm có vài hạt sạn. Anh bị cấp trên phê bình, và từ đó anh mất luôn sự tự tin. Anh luôn có cảm giác lo lắng khi phải gặp lãnh đạo của tổ chức và của các phòng ban khác, nhìn họ, anh luôn có cảm giác bản thân mình bất tài vô dụng. Anh sợ và tránh né những cuộc họp trong tổ chức, khi mà các lãnh đạo phòng ban họp bàn kế hoạch. Anh chỉ cảm thấy an toàn khi ở trong phòng nơi anh đang là người lãnh đạo. Nhưng cảm giác này cũng không thể kéo dài lâu vì anh vẫn lo lắng khi có người từ phòng ban khác đến liên hệ làm việc. Hiện giờ, anh sợ phải đến nơi làm việc, sợ sẽ chạm mặt ai đó trên đường vào phòng ban của mình. Mỗi lần đến trước cổng cơ quan, anh đều cảm thấy lo lắng và quyết định quay về nhà.
*
* *
Hai trường hợp kể trên đều liên quan đến Rối loạn lo âu xã hội, trong đó nỗi sợ bị đánh giá tiêu cực đã dẫn đến sự né tránh và suy giảm nghiêm trọng chức năng xã hội cũng như công việc.
Rối loạn lo âu xã hội ảnh hưởng đến khoảng 4% dân số nói chung(1), nhưng tỷ lệ này có thể lên đến 36% ở nhóm người từ 16-29 tuổi(2). Rối loạn thường khởi phát từ thời niên thiếu hoặc giai đoạn đầu trưởng thành. Đối với người đi làm, các triệu chứng có thể bộc lộ rõ ràng trong môi trường công việc, đặc biệt khi cá nhân từng trải qua những tình huống bị phê bình hoặc thất bại.
Triệu chứng chính bao gồm nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với người khác, đặc biệt là những người có quyền đánh giá họ. Người mắc có thể cảm thấy tự ti, vô dụng, sợ bị chỉ trích, và né tránh các tình huống xã hội hoặc công việc có liên quan. Họ cũng có thể có các triệu chứng cơ thể như tim đập nhanh, đổ mồ hôi, run rẩy khi phải tiếp xúc với người khác. Trong trường hợp nặng, sự lo lắng lan rộng, khiến họ không thể duy trì cuộc sống xã hội hoặc công việc bình thường.
Biến chứng thường gặp bao gồm trầm cảm, rối loạn lo âu lan tỏa, mất khả năng làm việc hoặc duy trì các mối quan hệ xã hội. Trong những trường hợp nghiêm trọng, người bệnh có thể phát triển rối loạn tránh né (Avoidant Personality Disorder) hoặc thậm chí có ý nghĩ tiêu cực về bản thân. Những người bị SAD có thể dần thu mình lại, mất đi cơ hội phát triển trong công việc, xa lánh bạn bè và người thân, khiến chất lượng cuộc sống suy giảm nghiêm trọng.
Tiên lượng của rối loạn này phụ thuộc vào mức độ lo âu và sự né tránh của bệnh nhân. Nếu được can thiệp sớm, nhiều người có thể hồi phục và lấy lại sự tự tin. Tuy nhiên, nếu không được điều trị, SAD có thể kéo dài nhiều năm và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống cá nhân và sự nghiệp. Một số người, do không chịu được áp lực từ sự lo âu kéo dài, có thể tìm đến những cách đối phó không lành mạnh như lạm dụng rượu bia hoặc chất kích thích để tạm quên đi cảm giác sợ hãi và tự ti.
Điều trị hiệu quả nhất là liệu pháp nhận thức - hành vi (Cognitive Behavioral Therapy - CBT), giúp bệnh nhân thay đổi cách nhìn về bản thân và học cách đối mặt với những tình huống gây lo âu một cách có kiểm soát. Phơi nhiễm hoặc Tiếp xúc dần (gradual exposure) là kỹ thuật quan trọng giúp họ từng bước đối diện với những tình huống mà họ sợ hãi. Trong một số trường hợp, các nhóm thuốc điều trị đặc hiệu lo âu có thể được sử dụng để hỗ trợ kiểm soát triệu chứng. Bên cạnh đó, xây dựng lại sự tự tin, học cách điều chỉnh phản ứng cảm xúc và phát triển kỹ năng đối phó với áp lực cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hồi phục.
Ở trường hợp đầu, con đã rơi vào tình trạng hoảng loạn và phải cần đến thuốc đặc hiệu cũng như chặn hoàn toàn những tác nhân tiêu cực, nâng đỡ, điều trị tâm lý liên tục mỗi ngày trong suốt tuần đầu tiên. Việc nâng đỡ, điều trị tâm lý được dãn cách dần trong ba tuần tiếp theo. Đến tuần thứ tư, khi tâm trạng tương đối ổn định, con bắt đầu thực hiện kỹ thuật phơi nhiễm bằng cách tiếp xúc dần với những tình huống làm con lo lắng ở mức độ mà con có thể chịu đựng được.
Hiện tại, con vẫn còn lo lắng nhẹ với một vài tình huống đặc biệt nhưng nhìn chung thì tiên lượng về khả năng hồi phục của con khá tốt. Mặc dù vậy, việc duy trì trị liệu tâm lý vẫn rất cần thiết để tránh nguy cơ tái phát khi gặp phải những biến cố tương tự trong tương lai.
Ở trường hợp thứ hai, anh chỉ gặp tôi một buổi để hiểu được một cách tổng quát về tiến trình can thiệp và điều trị. Sau đó không thấy anh đến tái khám…
Đối mặt với rối loạn lo âu xã hội không dễ dàng, nhưng điều quan trọng là biết rằng bạn không đơn độc. Sự giúp đỡ luôn có sẵn, từ những người thân yêu, chuyên gia tâm lý cho đến những phương pháp điều trị đã được chứng minh.
Đừng để lời nói tiêu cực định nghĩa bạn. Chúng có thể len lỏi vào lòng tự trọng và đánh gục bạn nếu bạn đồng ý cho chúng vào. Sự thật là bạn lớn mạnh hơn những phán xét đó. Bạn là kết quả của ước mơ, nỗ lực và niềm tin của chính mình. Khi đối mặt với tiêu cực, hãy chọn yêu thương bản thân, giữ vững sự thật và không ngừng tin vào giá trị của mình. Bạn không phải là người họ nói, mà là người bạn quyết định trở thành.
Học cách yêu thương bản thân, chấp nhận rằng ai cũng có thể mắc sai lầm và tập trung vào việc xây dựng lại sự tự tin chính là chìa khóa để vượt qua. Không phải lỗi lầm hay lời đánh giá của người khác quyết định giá trị của bạn, mà là cách bạn đứng dậy và tiếp tục tiến về phía trước.
Tài liệu tham khảo:
(1) Stein, D. J., Lim, C. C. W., Roest, A. M., de Jonge, P., Aguilar-Gaxiola, S., Al-Hamzawi, A., Alonso, J., Benjet, C., Bromet, E. J., Bruffaerts, R., de Girolamo, G., Florescu, S., Gureje, O., Haro, J. M., Harris, M. G., He, Y., Hinkov, H., Horiguchi, I., Hu, C., Karam, A., … WHO World Mental Health Survey Collaborators (2017). The cross-national epidemiology of social anxiety disorder: Data from the World Mental Health Survey Initiative. BMC medicine, 15(1), 143. https://doi.org/10.1186/s12916-017-0889-2
(2) Jefferies, P., & Ungar, M. (2020). Social anxiety in young people: A prevalence study in seven countries. PloS one, 15(9), e0239133. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0239133