Dự thảo quy định về xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định quy định thẩm quyền, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản. Theo đó, tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân bao gồm 6 nhóm chính.

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định quy định thẩm quyền, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Dự thảo này, nếu được thông qua, sẽ có tác động đáng kể đến việc quản lý và sử dụng tài sản công, đồng thời tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xử lý các loại tài sản vô chủ, bị bỏ rơi hoặc tịch thu.

Theo dự thảo, tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân bao gồm nhiều loại, từ tài sản bị tịch thu do vi phạm pháp luật đến tài sản vô chủ, bị bỏ rơi, di sản không người thừa kế, thậm chí cả hàng hóa tồn đọng tại cảng biển.

Tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Theo dự thảo, tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân quy định tại Nghị định này gồm:

1. Tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật, gồm: Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Vật chứng vụ án, tài sản khác bị tịch thu theo quy định của pháp luật về hình sự, pháp luật về tố tụng hình sự.

2. Bất động sản vô chủ, gồm: Bất động sản không xác định được chủ sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự. Bất động sản mà chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về dân sự.

3. Tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, gồm: Tài sản bị đánh rơi, bỏ quên không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận theo quy định của pháp luật về dân sự.

4. Tài sản là di sản không có người thừa kế, gồm: Tài sản không có người nhận thừa kế theo quy định tại Điều 622 Bộ luật Dân sự...

5. Tài sản là hàng hóa tồn đọng được lưu giữ lại khu vực cảng, kho, bãi thuộc địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan.

6. Tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam không thuộc trường hợp quy định tại các điểm d, e, g, h, i, k và 1 khoản 2 Điều 1 Nghị định này.

7. Tài sản của quỹ xã hội, quỹ từ thiện bị giải thể, gồm: Tài sản còn lại của quỹ xã hội, tài sản của quỹ từ thiện bị giải thể theo quy định của pháp luật về quỹ xã hội, quỹ từ thiện (sau khi đã thực hiện xử lý theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 42 Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện) nhưng không có quỹ khác có cùng mục đích hoạt động nhận tài sản chuyển giao.

8. Tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc thời hạn hoạt động.

9. Tài sản được đầu tư theo phương thức đối tác công tư được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án, gồm: Tài sản được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL), Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT).

10. Tài sản bị chôn giấu, bị vùi lấp, chìm đắm, gồm: Tài sản được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán mà tại thời điểm phát hiện hoặc tìm thấy không có hoặc không xác định được chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Tránh thất thoát, lãng phí

Việc mở rộng phạm vi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được kỳ vọng sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công, đảm bảo tài sản được sử dụng đúng mục đích, phục vụ lợi ích chung của xã hội. Hạn chế thất thoát, lãng phí tài sản: Xử lý triệt để các tài sản vô chủ, bị bỏ rơi, tránh tình trạng tài sản bị chiếm dụng, sử dụng trái phép.

Việc này còn tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thông qua việc xử lý, khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, ngăn chặn các hành vi lợi dụng tài sản vô chủ, bị bỏ rơi để thực hiện các hoạt động vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, dự thảo cũng đặt ra một số vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng, chẳng hạn như: Thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân: Cần đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện, tránh gây phiền hà cho người dân và cơ quan chức năng. Cơ chế quản lý, sử dụng tài sản sau khi xác lập quyền sở hữu toàn dân: Cần rõ ràng, hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan, đơn vị. Việc xử lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân cần đảm bảo công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, tránh thất thoát, lãng phí.

Dự thảo Nghị định đang được Bộ Tài chính công bố rộng rãi để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là cơ hội để người dân tham gia đóng góp ý kiến, hoàn thiện chính sách, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/du-thao-quy-dinh-ve-xac-lap-quyen-so-huu-toan-dan-doi-voi-tai-san-2347532.html
Zalo