Đổi mới 1986: Bước ngoặt lịch sử và khát vọng về một cuộc chuyển mình lần thứ hai

Từ tro tàn của một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, những quyết sách táo bạo và các sáng kiến 'phá rào' từ cơ sở đã đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói, bị cô lập vào quỹ đạo tăng trưởng năng động, hội nhập sâu rộng với thế giới.

Cú chuyển mình từ vực thẳm khủng hoảng

Cho đến nay, những con số của giai đoạn hoàng kim 1991-1995, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 8,2% và đỉnh cao 9,54% vào năm 1995, vẫn là mốc son sáng chói trong bức tranh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và là một "kỷ lục" không dễ vượt qua.

Quay ngược thời gian về bối cảnh đất nước trước năm 1986, càng thấy đây là con số "không tưởng" khi kinh tế Việt Nam khi ấy chỉ tăng trưởng vỏn vẹn 2,79% và lạm phát tăng phi mã lên tới gần 800%.

Đó là bức tranh về một nền kinh tế trên bờ vực "sụp đổ", khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, sản xuất đình trệ, lương thực thiếu thốn, đời sống nhân dân rất khó khăn.

Với quy mô GDP chỉ khoảng 8 tỷ USD, Việt Nam đứng thứ 9/10 trong khối ASEAN, chỉ trên Myanmar. GDP bình quân đầu người khoảng 200-300 USD, thuộc nhóm nghèo nhất thế giới.

"Đất nước đứng trước những thách thức nghiêm trọng, cấp thiết cần phải giải quyết,” chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hồi tưởng.

Bà nhớ lại, chính trong bối cảnh ngặt nghèo ấy, các nhà lãnh đạo đất nước đã đặt ra câu hỏi mang tính sinh tử: “Đổi mới hay là chết?”.

Với một tinh thần dũng cảm chưa từng có, Đại hội VI đã thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm trong tư duy và mô hình cũ, chỉ rõ nguyên nhân và xác định con đường duy nhất để cứu nguy đất nước là phải đổi mới toàn diện.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Giữa bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đi vào lịch sử như một bước ngoặt định mệnh. Với một tinh thần dũng cảm chưa từng có, Đại hội đã thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm trong tư duy và mô hình cũ, chỉ rõ nguyên nhân và xác định con đường duy nhất để cứu nguy đất nước là phải đổi mới toàn diện.

Đại hội năm ấy đã mở ra công cuộc đổi mới lịch sử, giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng, chuyển mình mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Tinh thần đổi mới ngay lập tức đã bùng lên mạnh mẽ trong xã hội và đặc biệt là trong giới lãnh đạo.

Trong đó, đổi mới về tư duy, đổi mới thể chế là khâu quan trọng nhất và là khởi đầu cho toàn bộ quá trình đổi mới của Việt Nam những năm sau này.

Dấu ấn sâu đậm nhất chính là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Việt Nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, coi trọng sản xuất hàng hóa và các thành phần kinh tế tư nhân.

Lần đầu tiên, Đại hội đã khẳng định sự tồn tại khách quan của kinh tế nhiều thành phần, mở đường cho kinh tế tư nhân, tập thể và đầu tư nước ngoài phát triển.

Bên cạnh đó, ba chương trình kinh tế lớn được xác định là phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm giải quyết cấp bách nhu cầu xã hội, tạo nền tảng phục hồi và phát triển kinh tế.

Từ đó, Nghị quyết Khoán 100 (1981) và Khoán 10 (1988) được xây dựng đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ngay sau Đại hội VI, Việt Nam lần đầu ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987) mở ra làn sóng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Đây chính là bước ngoặt lớn về thể chế đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, nâng cao vị thế quốc tế, tạo chuyển biến lớn trong kinh tế - xã hội.

Tại Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Chính phủ (28/8/1945 – 28/8/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định, nhìn lại 80 năm từ ngày thành lập nước, một trong những thành tựu to lớn của Chính phủ chính là tạo nên những bước ngoặt có tính "xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái" của đất nước .

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã thực hiện thành công chủ trương, đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.

Qua 40 năm đổi mới, Việt Nam từ một nền kinh tế dựa vào viện trợ, bị bao vây, cấm vận đã trở thành một nền kinh tế mở, năng động, sáng tạo, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực, thế giới, thuộc nhóm 15 quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu và nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu.

Đặc biệt, kinh tế tư nhân, từ chỗ không được thừa nhận, đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế.

Khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, là lực lượng nòng cốt tạo ra của cải, vật chất, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.

Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, 82% tổng số lao động. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường thế giới.

Năm 2025, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo sẽ đạt hơn 500 tỷ USD, xếp thứ 30 đến 33 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế lớn nhất thế giới, và là nền kinh tế lớn thứ 12 tại châu Á, thứ 4 hoặc 5 trong ASEAN, với bình quân đầu người vượt mốc 5.000 USD.

Tuy nhiên, hành trình phía trước vẫn còn nhiều thách thức. Di sản của Đổi mới không chỉ là những con số, mà còn là bài học về sự cần thiết phải liên tục cải cách để không bị tụt hậu.

Kỳ vọng vào công cuộc Đổi mới lần thứ hai

Theo PGS. TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, năm 1986, Đổi mới đã mở ra cánh cửa cho phát triển. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là, dù đạt nhiều thành tựu, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tăng trưởng dưới tiềm năng.

Khi những động lực tăng trưởng cũ đang dần chạm tới giới hạn, yêu cầu về một cuộc “Đổi mới lần thứ hai” đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Việc tiếp tục đổi mới không chỉ là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, mà còn là cơ sở, nền tảng và động lực quyết định mở ra kỷ nguyên phát triển mới, đánh dấu sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc.

Trong kỷ nguyên vươn mình đó, vai trò của kinh tế tư nhân được nhấn mạnh là động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng. Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đến được đích đó, theo ông Thiên cần có động lực mạnh mẽ trường kỳ từ khu vực kinh tế tư nhân hùng mạnh, tự tin cạnh tranh quốc tế và đi đầu đổi mới.

Điều đáng tiếc là trong thời gian vừa qua, kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn chưa thể “tiến vượt - tiến kịp”, thậm chí đang có dấu hiệu tụt hậu, tụt hậu xa hơn, nhất là so với yêu cầu đua tranh khốc liệt để “sánh vai” cùng thế giới.

Doanh nghiệp tư nhân Việt có năng lực “sống dai” nhưng chậm lớn, khó trưởng thành, khó hấp thụ nguồn lực vì thiếu niềm tin, thiếu cơ hội, và bị phân biệt đối xử.
Nếu không vươn mình lúc này, sẽ lỡ nhịp - không chỉ cho chính doanh nghiệp, mà còn đối với cả vận hội phát triển của đất nước, ông Thiên nhìn nhận.

PGS. TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Hoàng Anh.

PGS. TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Hoàng Anh.

Theo ông Thiên, để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, đưa nền kinh tế tăng tốc, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia nhằm đạt mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, đòi hỏi phải có nhận thức, tư duy mới, giải pháp đột phá để khơi dậy niềm tin, tạo xung lực mới cho kinh tế tư nhân.

Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cũng cho rằng, yêu cầu về một công cuộc đổi mới lần thứ hai là rất bức thiết. Bản chất của cuộc đổi mới lần này có thể gói gọn trong ba từ: “Thị trường, thị trường và thị trường hơn”.

Ông phân tích, đổi mới 1986 đã thành công trong việc tạo ra thị trường hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, một loại thị trường căn bản hơn – thị trường các yếu tố sản xuất (vốn, đất đai, tài nguyên) – vẫn chưa thực sự vận hành đầy đủ. Nguồn lực vẫn bị phân bổ một cách méo mó bởi cơ chế “xin – cho”, nơi quyền lực và lợi ích nhóm có thể can thiệp. Đây chính là nút thắt lớn nhất kìm hãm sự phát triển.

“Cuộc cải cách thể chế lần này sẽ khó hơn rất nhiều so với trước đó, bởi nó đụng chạm rất mạnh đến quyền lực và quyền lợi”, ông Cung nhấn mạnh. Nó đòi hỏi một sự thay đổi căn bản vai trò của Nhà nước, từ can thiệp, kiểm soát sang kiến tạo, hỗ trợ và tạo sân chơi bình đẳng.

Trong khi đó, nếu muốn thay đổi thể chế này, sẽ buộc phải thay đổi vai trò của Nhà nước và thị trường. Nhà nước phải rút lui để cho thị trường vào phân bổ nguồn lực. Nhà nước phải thúc đẩy, hỗ trợ, tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế, không phải kìm hãm xin - cho trong phân bổ nguồn lực.

Ở đó, chúng ta phải phát triển theo chiều ngang của thị trường, nơi người mua và người bán giao dịch tự do. Nhà nước không can thiệp hoặc can thiệp rất ít vào thị trường, trừ khi thị trường thất bại.

Thị trường, thị trường và thị trường hơn là bản chất, cũng là mục tiêu cần đạt được của cuộc đổi mới lần thứ hai này. Chúng ta phải nhìn sâu vào bản chất đó, để cải cách thể chế phù hợp và đi đúng hướng.

Để làm được điều đó, việc đầu tiên là phải triệt để loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm” trong xây dựng pháp luật. Thay vào đó, cần một tư duy lập pháp mới: không chỉ tháo gỡ rào cản, mà phải chủ động tạo ra không gian, cơ hội và con đường mới cho tăng trưởng, phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0.

Sau 40 năm Đổi mới, cuộc cải cách kinh tế Việt Nam lần thứ hai chưa bao giờ có điều kiện thuận lợi như bây giờ.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Ông Cung cũng đề xuất một giải pháp đột phá: Chính phủ cần xây dựng các đội ngũ nghiên cứu, tư vấn, phản biện độc lập thực sự mạnh, để cùng các bộ ngành xây dựng đề án cải cách một cách song song. Điều này sẽ giúp tìm ra phương án tối ưu nhất cho lợi ích quốc gia, thay vì bị chi phối bởi lợi ích cục bộ.

Bên cạnh những thách thức, ông Cung nhìn nhận, sau 40 năm Đổi mới, cuộc cải cách kinh tế Việt Nam lần thứ hai "chưa bao giờ có điều kiện thuận lợi như bây giờ". Đây là cơ hội rất lớn cho tăng trưởng trong thời gian tới.

Cùng chung nhận định, PGS. TS Trần Đình Thiên cũng cho rằng, thời điểm hiện tại là cơ hội tốt nhất sau 40 năm để cải cách và phát triển, với sự vào cuộc quyết liệt của những nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước. Hàng loạt nghị quyết quan trọng đã ra đời trong “bộ tứ chiến lược”: Nghị quyết 57 về khoa học - công nghệ; Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế; Nghị quyết 66 về cải cách thể chế; và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân.

Bên cạnh đó là việc vận hành chính quyền địa phương hai cấp và sáp nhập các tỉnh thành, nhờ đó sẽ rút ngắn thủ tục hành chính, tạo không gian phát triển mới. Nhìn tổng thể, đây là sự kết hợp tạo lập “thể chế mới” cho thời kỳ phát triển tiếp theo của Việt Nam - một giai đoạn mà tăng trưởng phải dựa trên trí tuệ sáng tạo, số hóa và bền vững, chứ không còn dựa chủ yếu vào những nguồn lực cũ như khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ hay xuất khẩu thô, ông Thiên nhận định.

Hành trình đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 đòi hỏi một xung lực mới, một niềm tin mới và những giải pháp đột phá. Cuộc đổi mới lần thứ hai, với trọng tâm là cải cách thể chế, chính là chìa khóa để mở ra kỷ nguyên phát triển tiếp theo, hiện thực hóa khát vọng “hóa rồng” của dân tộc trong thời đại mới.

***

Bài viết thuộc chuyên đề "Từ Độc lập đến Thịnh vượng" do TheLEADER triển khai nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh 2/9.

Phương Linh

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/doi-moi-1986-buoc-ngoat-lich-su-va-khat-vong-ve-mot-cuoc-chuyen-minh-lan-thu-hai-d41763.html
Zalo