Doanh nhân… nhân văn

Ít người biết rằng, từ đầu thế kỷ XX, doanh nhân Bùi Huy Tín (1875-1963), một trong 'tứ đại phú hộ' nổi danh miền Bắc, đã để lại những dấu ấn đậm nét trong nhiều công trình đầu tư trên mảnh đất Quảng Bình. Trải qua hơn một thế kỷ với nhiều biến động, dấu tích của những công trình đó dẫu phai mờ theo năm tháng nhưng đã thể hiện tầm nhìn, tư duy phát triển kinh tế vượt thời đại của ông.

Cải tạo sinh thái phá Hạc Hải

Tiến sĩ (TS.) Nguyễn Khắc Thái cho biết, nói đến dấu ấn Bùi Huy Tín ở Quảng Bình không thể không nói đến công trình đê bao ngăn mặn, cải tạo hệ sinh thái vùng đầm phá Hạc Hải. Chính sự sâu sắc, đa văn, quảng kiến đã tạo cho ông có “cái nhìn” vượt lên trên cảnh quan của một thắng cảnh kỳ thú hiếm hoi trên dải đất miền Trung, để chinh phục và khai thác những giá trị tài nguyên đặc biệt quý hiếm của hệ sinh thái đầm phá nước lợ, mang lại nguồn lợi kinh tế nông nghiệp.

Khác với các nhà đầu tư đồn điền thời bấy giờ, chỉ đầu tư vào khai thác tài nguyên thuần túy, ông vừa khai thác lợi thế tài nguyên, vừa tìm cách cải tạo sinh thái để tăng giá trị sử dụng, tạo ra vùng sinh thái thuận lợi để cộng đồng cư dân trong khu vực cùng hưởng lợi. TS. Nguyễn Khắc Thái khẳng định: “Đây là một quan điểm đầu tư hiện đại, phản ánh tư duy phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững”.

Doanh nhân Bùi Huy Tín.

Doanh nhân Bùi Huy Tín.

Cách đây hơn 100 năm, doanh nhân Bùi Huy Tín đã bắt tay vào việc đắp đê dọc theo bờ sông Kiến Giang trong vùng phá Hạc Hải để nước mặn không chảy vào ruộng đồng, khắc phục tình trạng đất bị nhiễm mặn. Theo đó, một nửa Hạc Hải nhờ con đê ngăn mặn mà ngọt hóa hàng nghìn ha đất ruộng, đưa diện tích gieo trồng lúa 1 vụ lên 2 vụ. Nửa còn lại vẫn giữ nguyên nguồn thông thủy giữa hai dòng nước mặn và ngọt, bảo đảm hệ sinh thái vùng ngập nước mặn lợ phát triển.

Vì vậy, vùng đầm phá Hạc Hải vẫn giữ vai trò vừa thông thủy, thoát lũ, vừa điều tiết 2 nguồn sinh thái mặn và ngọt. Tuy nhiên, trong điều kiện kỹ thuật công nghệ đầu thế kỷ XX, ông chưa có điều kiện khảo sát địa chất để có những giải pháp hợp lý khi đào đắp đê. Mỗi ngày, có hàng nghìn nhân công đào đắp đê, nhưng vì đây là vùng sình lầy, cứ đào đắp được một đoạn thì đêm xuống, nước triều lên, con đê lại bị san bằng. Hiện nay, trên phá Hạc Hải vẫn còn dấu vết của những triền đê như thế.

Khi tìm hiểu về công trình này, chúng tôi may mắn gặp ông Hoàng Văn Tân, nguyên Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh, là cháu ngoại của cụ Dương Côn (quê ở làng Đào Xá, tổng Đặng Xá, nay là xã Đào Dương, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), người từng quản lý đồn điền ông Đồng trên vùng phá Hạc Hải của Bùi Huy Tín năm xưa. Ông Tân nhớ, thuở trước thường nghe bà ngoại và mẹ kể rằng: “Doanh nhân Bùi Huy Tín là người khai phá vùng đất Hạc Hải, lập đồn điền trồng lúa (dân gian gọi là đồn điền ông Đồng) và có công lập nên làng Đắc Lập, Bình Phú (xã Gia Ninh, Quảng Ninh), thôn Đồng Hải (xã Hồng Thủy, Lệ Thủy).

Ngày nay chỉ còn lại thôn Đồng Hải và vẫn giữ tên gọi như trước. Còn những con đê của ông Tín cho người đào đắp ngày xưa, người dân nơi đây gọi là “đê cụt” và những con hói, như: Hói Sỏi, hói Chợ, hói Mụi… Ông Tân vẫn nhớ câu chuyện nhân văn của vị doanh nhân này khi đến khai phá vùng Hạc Hải: “Thuở trước, vùng đầm phá Hạc Hải là nơi mưu sinh của nhiều cư dân sông nước. Ngày ông Bùi Huy Tín lập đồn điền trồng lúa, ông đã xây dựng những vùng đất “định cư” cho họ làm nhà và thuê họ bảo vệ ruộng. Vậy là từ những cư dân lênh đênh sống đời “gạo chợ, nước sông”, nay được an cư lạc nghiệp, vừa có việc làm mưu sinh, lại vừa thỏa chí với nghề sông nước”.

Vùng đồng ruộng trù phú của phá Hạc Hải ngày nay.

Vùng đồng ruộng trù phú của phá Hạc Hải ngày nay.

Nối thông tuyến đường sắt Bắc-Nam

Theo sách “Đường sắt Pháp ở Đông Dương và Vân Nam” của tác giả người Pháp Frédéric Hulot, do cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918), công trình đường sắt xuyên Việt do Pháp xây dựng bị gián đoạn đến 15 năm. Năm 1920, đoạn từ Vinh đến Đồng Hới bắt đầu được thi công trở lại.

“Thực tế, các công trường của khu đoạn phía Bắc không vượt quá Tân Ấp (Tuyên Hóa). Ở đó, những người cuối cùng ủng hộ kế hoạch Sarraut (Toàn quyền Đông dương Albert Sarraut) vẫn… để tâm nhiều đến ý đồ mở đường sang đất Lào. Những người xây dựng khu đoạn miền Trung chỉ có những phương tiện hạn chế, đã chứng tỏ cho những người có ý đồ trên là họ sai lầm bằng cách nối thông trong năm 1927”.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, giai đoạn lịch sử thời cận đại, thời thuộc địa, Bùi Huy Tín là nhân vật được nhắc đến nhiều như một doanh nhân giàu có và một nhân vật danh giá với câu ngạn ngữ: “Nhất Bưởi, nhì Thu, tam Phu, tứ Tín” (Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Hoàng Trọng Phu và Bùi Huy Tín).

Và người đã chứng minh cho sự “sai lầm” của người Pháp, nối thông tuyến đường sắt Bắc-Nam chính là một trong “Tứ đại phú hộ” nổi danh miền Bắc Bùi Huy Tín. Nguyên nhân dẫn đến sự “né tránh” của người Pháp, một phần do nguồn ngân sách của Pháp bỏ ra không đủ để bảo đảm tiến độ xây dựng.

Mặt khác, do đoạn đường sắt này có địa hình rất hiểm trở, thi công phức tạp và tốn kém, như đoạn qua ga: Tân Ấp, Đồng Chuối, Kim Lũ, Đồng Lê, Ngọc Lâm (Tuyên Hóa), Long Đại, Mỹ Đức (Lệ Thủy). Trong bối cảnh đó, Bùi Huy Tín đã đứng ra đảm nhận các gói thầu cung ứng vật liệu và thuê mướn nhân công lao động để xây dựng tuyến đường sắt này. Khác với lực lượng lao động xây dựng đường sắt do Pháp chiêu mộ chủ yếu là phu đường (phu lục lộ chuyển sang làm đường sắt), ông thuê một bộ phận công nhân lành nghề, đảm nhận các khâu kỹ thuật xây dựng cầu, cổng, ga trạm và những lao động phổ thông làm thuê khai thác đá tại các mỏ đá Minh Cầm, Lèn Bảng, Lèn Áng nằm gần các cung đường xây dựng đường sắt.

Việc nối thông tuyến đường sắt Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Quảng Bình được coi là một công trình lớn, không chỉ tác động mạnh mẽ đến tình hình giao thương của cả nước mà còn góp phần mở mang kinh tế-xã hội của Quảng Bình thời bấy giờ.

Một đoạn đường sắt xuyên núi đá (qua huyện Tuyên Hóa) do Bùi Huy Tín thi công.

Một đoạn đường sắt xuyên núi đá (qua huyện Tuyên Hóa) do Bùi Huy Tín thi công.

Chưa dừng lại ở đó, theo tư liệu lịch sử, cũng trong khoảng thời gian những năm sau 1920, Bùi Huy Tín cũng đã đầu tư đồng loạt vào các đồn điền trải rộng trên địa bàn tỉnh, cạnh tranh sòng phẳng với các chủ đồn điền của Pháp. Đó là các đồn điền Kim Lũ (Tuyên Hóa), Phú Quý (Bố Trạch), Hạc Hải (Quảng Ninh và Lệ Thủy) và Cẩm Lý (Lệ Thủy).

TS. Nguyễn Khắc Thái cho rằng: “Phương thức và cách tổ chức đầu tư cho thấy ông là người am hiểu sâu sắc vùng đất, con người Quảng Bình và không ngại khó khăn, không sợ thất bại. Đặc biệt, Bùi Huy Tín khác với các nhà đầu tư cùng thời là luôn đặt lợi ích của mình song hành với lợi ích cộng đồng. Đó là tinh thần nhân văn cao cả trong đầu tư phát triển kinh tế. Cho đến nay, những “viên gạch” của Bùi Huy Tín đặt nền móng thuở trước vẫn giữ vai trò là những điểm nhấn kinh tế nông lâm nghiệp quan trọng trên địa bàn tỉnh”.

Dương Công Hợp

Nguồn Quảng Bình: https://www.baoquangbinh.vn/phong-su/202501/doanh-nhan-nhan-van-2224087/
Zalo