Di sản được hồi sinh
Cùng với Festival, Huế đã trở thành một trong những tâm điểm thu hút, hội tụ và lan tỏa các giá trị văn hóa, là môi trường và cơ hội làm sống lại và tỏa sáng di sản văn hóa Huế.
Năm 2002, trong bài báo “Tiếng Việt có thêm một từ: Festival”, NSND Đặng Nhật Minh viết: “Vậy là Huế đã có thể chính thức trở thành một thành phố Festival. Những thành phố như vậy trên thế giới có nhiều: Avignon ở Pháp, Barcelona ở Tây Ban Nha, Venice ở Ý... Nhưng không ở đâu có một dòng sông trong vắt và xanh biếc chảy giữa lòng thành phố như ở đây. Không ở đâu con người cảm thấy gần gũi với thiên nhiên như ở đây”.
Nhận xét có tính khẳng định này là một lời tán tụng về tài năng sáng tạo của ông cha khi xây dựng một đô thị Huế tuyệt vời. Ông cha đã để lại một di sản kiến trúc vật chất đồ sộ với quần thể cung điện, lăng tẩm, thành quách, đình tạ, miếu đường... nguy nga, lộng lẫy; tích hợp những giá trị vật chất và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa Huế, vừa mang tính đặc thù - bản địa của một vùng đất, vừa không tách rời những đặc điểm chung của truyền thống văn hóa dân tộc, tạo cho Huế một giá trị đặc trưng nổi bật, một bản sắc riêng độc đáo… Nói như nguyên Tổng Giám đốc UNESCO A.M.M' Bow: Huế là “Một kiệt tác thơ của kiến trúc đô thị”. Hay như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: “…Mãi cho đến ngày nay, Huế là một trong số ít ỏi đô thị còn lại giữa lòng thế giới hiện đại vẫn đắm mình trong bài thơ sâu thẳm của thiên nhiên…”.
Tháng 8/2007, Chính phủ Việt Nam quyết định cho phép xây dựng Huế trở thành thành phố Festival. Mới đây, ngày 30/11/2024, Quốc hội quyết nghị thành lập thành phố Huế, là thành phố thứ 6 của cả nước trực thuộc Trung ương trên cơ sở hiện trạng tỉnh Thừa Thiên Huế, với đặc trưng: Văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh, đưa Huế phát triển nhanh, bền vững. Quyết nghị này cũng gián tiếp khẳng định văn hóa là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đô thị Huế.
Cùng với festival, Huế đã góp công sức để các lễ hội cung đình, dân gian, lễ hội mới, các loại hình nghệ thuật, cả nghệ thuật sống, được dày công tôn tạo, gìn giữ và xây dựng mới. Việc khai thác và phát huy giá trị di sản cũng đã thúc đẩy phục hồi các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống đáp ứng nhu cầu của du khách. Nhìn lại hơn 20 năm qua, các sản phẩm văn hóa qua các kỳ festival góp một phần có ý nghĩa cho việc xây dựng một đô thị Huế văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan thân thiện môi trường và thông minh, đưa Huế phát triển nhanh, bền vững.
Qua các kỳ Festival Huế và Festival Nghề truyền thống Huế, lò gốm làng cổ Phước Tích đỏ lửa với nghệ nhân Lương Thanh Hiền, trở lại cùng “Hương xưa làng cổ” kể từ Festival Huế 2006. Ngôi làng 600 năm tuổi với những ngôi nhà rường cổ 200 năm tuổi từng sầm uất, trù phú bởi nghề gốm. Những bàn xoay lại được xoay vòng xên, chuốt gốm xưa như khẳng định sức sống của một làng cổ. Rồi kế tục là đệm bàng, nón bàng, túi xách bàng, sen trắng từ giống sen hồ Tịnh hồi sinh với nữ doanh nhân Nguyễn Thị Huệ, cùng với hát sắc bùa, múa hát Thiên hạ thái bình, múa bài bông với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế và những nghệ nhân Nguyễn Đức Bút, Lê Trọng Diễn…
Hoa giấy Thanh Tiên có mặt ngay từ các chương trình Festival Huế đầu tiên, trên tay các người đẹp với áo dài và nón lá. Nghề làm hoa giấy ở làng Thanh Tiên đã có trong danh mục thống kê các nghề thủ công từ thế kỷ XVI-XIX. Làng Thanh Tiên xưa còn có tên là Tân Lãn hay Tân Lạn, là một trong những địa phương hiếm hoi còn nắm giữ được những thủ thuật bí truyền trong nghề làm bông lùng, bông bụp - một loại hoa đặc trưng trên bàn thờ của Huế xưa. Ngôi làng thành nơi thăm thú của du khách bốn phương là đỉnh cao của chấn hưng một làng nghề mấy trăm năm mai một cho đến đầu những năm 2000, với nghệ nhân ưu tú Thân Văn Huy.
Diều Huế phục sinh từ những năm 80, rực rỡ trong các chương trình Festival với nghệ nhân Nguyễn Văn Bê cùng các hậu duệ và học trò: Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Đăng Hoàng… Những cánh bay Việt Nam ấy đã bay rực rỡ khắp 5 châu. Lồng đèn Huế bao năm lặng lẽ chìm khuất trong những xóm nghề ở phố cổ Gia Hội, bỗng hồi sinh những chiếc đèn bánh ú, giản dị mà thấm đẫm hồn xưa, sắc màu tươi tắn, rộn rã xuống phố với các nghệ nhân Nguyễn Ngọc Mẫn, Nguyễn Đăng Hoàng.
Festival Huế 2006, lễ hội lồng đèn Huế diễu hành qua các con đường gần cả cây số với hàng ngàn chiếc lồng đèn, thắp sáng lung linh đêm Huế để nhắc nhở mọi người lồng đèn Huế đang sống, và sẽ rạng rỡ ở các lễ hội nhiều nước trên thế giới. Zèng A Lưới không chỉ ấn tượng và bản sắc là trang phục của bà con dân tộc mà còn cực kỳ sang trọng trong trang phục hiện đại, ở Huế, Hà Nội, mà còn lộng lẫy ở Nhật Bản, Pháp và nhiều quốc gia nữa, với nghệ nhân Mai Thị Hợp và sự thán phục của bạn bè quốc tế.
Pháp lam Huế với kỹ thuật tráng men màu thủy tinh trên kim loại, bắt nguồn từ châu Âu, sang Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam từ thời vua Minh Mạng (1820-1841), được sử dụng rất nhiều trong trang trí nội, ngoại thất cho các cung điện ở Huế. Mai một và thất truyền hẳn sau thời vua Đồng Khánh (1885-1889), pháp lam Huế đã được hồi sinh từ những năm 2000 với nghệ nhân Đỗ Hữu Triết, người đầu tiên và duy nhất hồi sinh nghệ thuật cổ này, xuất hiện và giới thiệu thành công bất ngờ từ Festival Nghề truyền thống Huế. Rồi sen Huế, ẩm thực Huế, áo dài Huế, nón Huế, đúc đồng Huế, mộc mỹ nghệ Huế, mây tre Huế… đang hồi sinh và phát triển.
Từ Festival Huế, Festival Nghề truyền thống Huế - những lễ hội của khát vọng - không chỉ nhiều làng nghề, nhiều lễ hội đặc trưng cung đình và dân gian độc đáo sống lại cùng các nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân về diều, áo dài, kim hoàn, đúc đồng, lồng đèn, múa, ca truyền thống…, nhiều hương sắc văn hóa đặc thù ở các làng quê cũng được sống lại: Múa Azakohn A Lưới, múa Thiên hạ thái bình, hát sắc bùa Phong Điền, hát bả trạo Quảng Điền, lễ hội cầu ngư Thuận An, mặt nạ tuồng Huế…
Di sản văn hóa Huế không còn là những di tích của quá khứ, mà sẽ là những cơ sở sống động cho sự phát triển trong tương lai của Cố đô Huế hôm qua, thành phố Huế trực thuộc Trung ương hôm nay.