Nhen lửa đêm đào nở...
Dẫu đã qua lại nhiều đến nhớ thương, thương nhớ nhưng cảm xúc trước khi đến mảnh đất trập trùng núi sông Cẩm Thủy chẳng lần nào giống lần nào. Kỷ niệm của tôi gắn với những ngày tết trên vùng đất này là điều gì đó rất đặc biệt, một cái tết đầy tình yêu thương, nồng ấm bên bếp lửa với đan xen những câu chuyện đời, chuyện người lính, chuyện văn chương...
Đêm 29 tháng Chạp ấy, cảnh sắc thiên nhiên vùng đất Cẩm Tú (Cẩm Thủy) thật đẹp. Đêm khoác lên mình vẻ tinh khôi của sương xen lẫn rét ngọt. Nhà thơ Cao Nguyên Quyền và cháu đích tôn của ông cùng tôi đặt bếp, xếp củi chuẩn bị nổi lửa nấu nồi bánh chưng dưới gốc cây đào đã trồng hơn 30 năm tuổi. Tôi và cụ Quyền là cha con kết nghĩa, từ hai người xa lạ mà ân nghĩa với nhau như máu mủ ruột rà.
Những bông đào lác đác bung nở đón lấy sương đêm như cách điểm trang, tô lên mình vẻ đẹp rạng ngời đón tết. Vẻ đẹp của những bông hoa đào càng rực rỡ và lấp lánh hơn qua những lần lửa chớp qua. Chúng tôi, 3 thế hệ ngồi cùng nhau, nói chuyện đông - tây, kim - cổ. Trước ánh lửa bập bùng, trong đêm xuân thanh tịnh, 3 con người - 3 thế hệ đều có những mảnh chuyện sâu thẳm của mình. Nhà thơ Cao Nguyên Quyền chỉ tay vào dãy núi trước nhà chỉ dẫn đó là hướng thôn Vọng, thuộc xã Cẩm Giang quê hương ông và nói:
- Năm bố 7 tuổi đã phải chứng kiến cảnh chiến tranh tàn khốc trên mảnh đất này. Đó là năm 1965, quân Mỹ đánh phá, thả bom quanh thị trấn Cẩm Phong, bến phà, dọc lên núi Mổ, trường học, cơ quan, rất nhiều nơi không còn nguyên vẹn. Tất cả người dân, con trẻ, người già phải sơ tán vào các hang núi để tránh bom. Bố và mấy chú khi ấy còn nhỏ, được đưa vào hang chùa Vọng. Lòng hang rộng nên có rất đông người đến lánh nạn. Bấy nhiêu con người, từ ăn, ngủ, học tập, sinh hoạt đều diễn ra tất thảy trong hang. Khổ lắm, đâu phải bữa nào cũng được no, dù có run vì đói cũng không thể mất cảnh giác, mỗi lần nghe tiếng rầm rầm, nghiêng đầu ra phía phà Cẩm Thủy, bắc qua sông Mã là thấy quân địch đang điên cuồng đánh bom. Những nỗi sợ ấy rồi cũng khiến con người ta kiên cường đứng lên, bất chấp vượt qua mọi gian khó.
Thằng cu Nòi, 13 tuổi, cháu đích tôn của ông nhanh nhảu và hồn nhiên nói:
- Con thấy khốc liệt quá ông ạ! Ông có bị thương chỗ nào không?
- Ông không sao, vẫn học tập và bất di bất dịch ở hang chùa Vọng. Nhưng chiến tranh mà, làm sao mà tránh khỏi những mất mát, đau thương. Không riêng gì Cẩm Thủy, thời đó, giặc Mỹ đánh phá khắp xứ Thanh, chúng đánh dọc các lạch biển, thị xã, Hàm Rồng, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Hòn Mê... nói chung dân chúng nước ta thời ấy rất khổ, cái chết luôn cận kề trong gang tấc.
- Có phải vì thế nên ông quyết tâm gắn bó với “đời binh nghiệp” suốt 40 năm? Thằng Nòi đưa ánh mắt đầy ngưỡng mộ nhìn ông.
Ông Quyền từ tốn đáp lời đứa cháu ngoan: Mảnh đất Cẩm Giang là mảnh đất gắn liền với chiến tranh, không chỉ kháng chiến chống Mỹ, mà còn cả thời kỳ chống Pháp. Nhà mình sau lưng là sông Mã, trước mặt thì trùng điệp núi, các hang núi cũng là địa thế thuận lợi cho công binh bố trí xưởng sản xuất vũ khí, mỗi nhánh hang trở thành các phân xưởng, lò rèn, lò đúc. Một số hang núi ở đây được quân ta sử dụng làm nơi họp, kho quân dụng... Mỗi hang đều có một trung đội công an Nhân dân vũ trang (nay là lực lượng bộ đội biên phòng) thay phiên nhau canh gác. Đó là các hang như: hang Dơi, hang Chùa, hang H4 (Cá), hang Đắng, hang Bò, hang Vượn... Ông nhập ngũ năm 1972, khi vừa tròn 17 tuổi. Lúc bấy giờ, ông chỉ nghĩ một điều đơn giản – “làm trai cho đáng nên trai”, khoác lên mình màu áo lính mà phụng sự Tổ quốc, Nhân dân là điều nên làm. Ông luôn mơ ước được trở thành thầy giáo dạy văn, ngày ngày lên lớp dạy học sinh của mình những vần thơ hay, áng văn đẹp để chúng biết giá trị của văn chương, biết thế nào là chân - thiện - mỹ. Nhưng đời binh nghiệp đến với mình giống như cơ duyên tốt lành.
Những câu chuyện cứ thế chìm sâu vào màn đêm. Từ khi lập gia đình, nhà thơ Cao Nguyên Quyền sống tại quê vợ - Cẩm Tú. Trong nhà, vợ chồng anh Dương, con trai cả của nhà thơ Cao Nguyên Quyền đang gói nốt mấy cặp bánh chưng. Anh Dương là một họa sĩ. Buổi chiều, mấy người chúng tôi đã tất bật giã lá nếp ngâm gạo; mấy tiếng trôi qua, gạo cũng vừa thơm vừa xanh, hứa hẹn hương vị bánh chưng ngon quyện đầu lưỡi. Lần đầu tiên về xứ Mường ăn tết, tôi được hòa mình vào văn hóa truyền thống nơi đây, được học cách gói bánh chưng xanh, đồ xôi nếp thơm và chế biến một số món ăn đặc trưng khác. Tôi cũng phần nào hiểu hơn về phong tục, nghi lễ thờ cúng của người Mường vùng Cẩm Tú.
Mấy ông cháu, bố con trò chuyện một lúc thì cùng nhau xếp bánh chưng vào nồi lớn chuẩn bị công đoạn luộc. Tôi cảm nhận được một không gian nghệ thuật ắp trong đêm xuân miền sơn cước, cảm nhận được sự sục sôi đầy tâm trạng và năng lượng của một nhà thơ, một họa sĩ và tôi, một cây viết lang bạt khắp chốn. Tôi thấy một hồn tranh quyện hòa giữa bóng hình núi sông, đa dạng sắc màu văn hóa Mường, cả hồn thơ dành trọn trái tim cho người lính và quê hương, gia đình. Tôi tự nói lớn:
- Không hiểu sao Cẩm Thủy lại cho con nhiều năng lượng viết đến thế, mặc dù quê gốc con ở Thường Xuân. Có phải vì con được sinh ra và lớn lên ở Tây Nguyên, cả tuổi thơ không biết, không được đặt chân đến quê cha đất tổ là một điểm khuyết của con và chính không gian ấm áp này đã bù đắp, lấp đầy khoảng trống ấy.
- Con chính là món quà mà ông trời đem đến cho bố. Mọi sự cô đơn, lạc lõng cuối đời của bố luôn có con là người thấu hiểu, sẻ chia... Điều quý giá nhất là bố đã tìm lại được cảm hứng sáng tạo, lại tiếp tục viết nên những trang thơ ở cái tuổi “xế chiều”.
Lửa hắt sáng lên gương mặt người đàn ông đã nếm trải đủ dư vị cuộc đời. Rồi ông say sưa cất giọng đọc vang những câu thơ về đời lính: “Đồng đội chúng mình nhiều bước chân thật giả/ tròn, khuyết đất bùn/ trên ngực/ từng chiếc phù hiệu thương binh, cựu binh đã ghim trầy hàng chỉ,... (Đôi nạng gỗ). Ông ngân nga những câu thơ về mảnh đất mình đang sống: “Một vùng bán sơn địa/ loi doi mấy chục nếp sàn/ nghèo đói nên gọi: làng Gầm/ hình dáng như cán mai, cán thuổng/ Xiên chen dãy núi, dòng sông” (Ký ức làng tôi) và nhiều câu thơ khác nữa... Với thơ, ông như đang được “hồi xuân”.
Đêm rút nhanh về 3 giờ sáng, cái rét miền rừng chẳng làm tôi thấy lạnh. Ánh lửa đã sưởi ấm những hạt mưa lun phun. Ngọn lửa tỏa đều dưới nồi bánh chưng, nước trong nồi kêu lên sùng sục. Đó là một đêm mùa xuân tôi nghe hoa thức, thấy những hoài bão vẫn sinh sôi, những ngọn núi trước nhà chẳng mất đi vẻ sừng sững. Cái tết lang thang của tôi, cũng như những bông đào rừng lác đác nở giữa sương, giữa lửa... Một cái tết xa nhà, vậy mà Cẩm Thủy lại cho tôi sum vầy, đoàn viên và thật nhiều yêu thương, ấm áp.