Dấu ấn quân tình nguyện BĐBP ở vùng đất Hạ Lào
Tháng 1/1985, Trung đoàn 687 BĐBP Quân khu 5 (tiền thân là Trung đoàn 20 Công an nhân dân vũ trang) nhận mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu 5 di chuyển từ Campuchia để làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước bạn Lào. Tuy chỉ 2 năm gắn bó, nhưng đơn vị đã nhiều lần khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ và cùng các đơn vị chuyên gia củng cố thêm tình nghĩa keo sơn gắn bó giữa quân đội hai nước, hai dân tộc Việt Nam - Lào.

Ban Liên lạc Trung đoàn 687 tặng quà thân nhân liệt sĩ của đơn vị. Ảnh: Trúc Hà
Hành quân thần tốc về Hạ Lào
Ngay khi chiến dịch ngã ba biên giới (Campuchia - Thái Lan - Lào) kết thúc, tại Sở Chỉ huy Mặt trận 579, đồng chí Nguyễn Chơn, Tư lệnh Quân khu 5 đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 687 BĐBP Quân khu 5 (từ đây gọi là Trung đoàn 687) khẩn trương tổ chức lực lượng, hành quân ngay sang huyện Sukhuma (tỉnh Champasak, Lào) để triệt phá các căn cứ của Pol Pot trên đất Lào; truy quét, ngăn chặn địch tại ngã ba biên giới Lào - Thái Lan - Campuchia. Đồng chí Hoàng Khúc, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 687 nhanh chóng quán triệt tới tất cả các đơn vị triển khai nhiệm vụ mới. Theo đó, mọi người sẽ không có ngày nghỉ, phải hành quân ngay và có nhiều nhất 7 ngày để đến vị trí mới.
4 giờ sáng ngày 7/1/1985, Trung đoàn trưởng Hoàng Khúc báo thức đơn vị lúc 4 giờ sáng và đúng 6 giờ phát lệnh hành quân dưới sự dẫn đường của tiểu đội trinh sát. Cứ thế, cả trung đoàn hành quân, mỗi giờ nghỉ 15 phút. Mặc dù quân tư trang nặng trĩu vai, nhưng không ai phàn nàn vì biết đó là nhiệm vụ quan trọng. Khi đi qua dãy núi Danggreak, nơi Sư đoàn 801 và 920 Pol Pot từng đóng quân thời gian dài, chúng gài mìn dày đặc để phòng thủ, các chiến sĩ trinh sát không quản hiểm nguy, cứ cắt góc phương vị đưa đoàn đi. Đúng 18 giờ, ngày 10/1/1985, đơn vị đến Sukhuma. Phút gặp gỡ đầu tiên, chính quyền và nhân dân Lào đón tiếp những người lính tình nguyện Việt Nam rất ân cần, vui vẻ.
Trung đoàn bộ và các đại đội trực thuộc đứng chân tại bản Kẽm (thị trấn Sukhuma, huyện Sukhuma). Khu vực này, bạn chưa thành lập được chính quyền cấp cơ sở vì tàn quân FULRO và bọn phản động người Lào, người Việt Nam luôn ra vào quấy nhiễu, đe dọa, bắt dân bản phục vụ theo ý muốn của chúng. Sukhuma đã một thời là căn cứ bất khả xâm phạm của các thế lực phản động quốc tế. Từ Sukhuma, chúng bí mật tìm đường xâm nhập vào khu vực biên giới các tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam. Bọn phản động trong nội địa cũng bí mật ra đây để gặp quan thầy, nhận tiền, vũ khí quay về chống phá cách mạng Việt Nam.

Niềm vui của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 687 tại buổi gặp mặt nhân dịp kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập Trung đoàn. Ảnh: Trúc Hà
Những dấu ấn mạnh mẽ
Ngay khi đặt chân tới Sukhuma, Trung đoàn 687 vừa củng cố nơi ăn chốn ở, vừa tuần tra truy kích tàn quân Pol Pot và giúp chính quyền địa phương xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập các tổ chức, đoàn thể quần chúng, triển khai huấn luyện quân sự cấp đại đội cho bạn và tham gia phát triển kinh tế. Qua công tác bám nắm địa bàn, các trinh sát thấy có không ít người dân Campuchia chạy nạn sang Sukhuma. Trung đoàn đã cử cán bộ giải thích cho bà con về chính sách hòa hợp dân tộc, về tình hình đất nước Campuchia. Sau một thời gian, đã có nhiều gia đình quay trở lại Campuchia sinh sống.
Gần 2 năm ở Hạ Lào, Trung đoàn 687 đã có nhiều trận đánh mà trải qua gần 50 năm vẫn được nhắc đến đầy tự hào. Ngày 18 tháng Chạp Tết Bính Dần (năm 1986), đồng chí Nguyễn Xuân Khởi chỉ huy 17 chiến sĩ của Đại đội 10 (Tiểu đoàn 208) đi tuần tra. Khi tới một con suối nhỏ, đội tuần tra dừng chân nấu cơm trưa. Trong lúc cảnh giới, một chiến sĩ phát hiện vỏ mì tôm trôi theo dòng nước. Đồng chí Khởi cho bộ đội bí mật hành quân lên phía đầu nguồn. Đến một đoạn đường nhỏ, rậm rạp, đồng chí cho bộ đội cài 7 quả mìn Claymore và chờ đợi. Quả nhiên, 2 giờ sau, một tốp địch đi vào ổ phục kích. Sau đó, đài kỹ thuật Quân khu 5 xác nhận trận đánh ngày 18 tháng Chạp của Trung đoàn 687 đã diệt tại chỗ 31 tên địch.

Đồng chí Lê Ngọc Chinh (bên trái), người đã chỉ huy trận đánh ngày 16/9/1986, tại Hạ Lào. Ảnh: Trúc Hà
Tuy nhiên, dấu ấn sâu đậm nhất phải là trận đánh ngày 16/9/1986 do đồng chí Lê Ngọc Chinh, Tiểu đoàn phó Chính trị Tiểu đoàn 210 chỉ huy. Khi nhận được tin có toán lính Pol Pot xâm nhập, đồng chí Lê Ngọc Chinh đã dẫn theo 72 cán bộ, chiến sĩ truy kích địch trong rừng. Đồng chí Lê Ngọc Chinh đã bố trí thành 3 mũi, chọn thời điểm quyết định để tấn công. Kết quả, đội hình của ta đã tiêu diệt và làm bị thương 73 tên, thu được lượng lớn đạn, lương thực, quân trang, thực phẩm, súng AK, AR15. Mặc dù là cán bộ chính trị, nhưng đồng chí Lê Ngọc Chinh đã trực tiếp tham gia chỉ huy chiến đấu và giành thắng lợi. Trận đánh ngày 16/9/1986 khẳng định tầm nhìn chiến lược của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 trong việc điều chỉnh đội hình đứng chân các đơn vị, đặt niềm tin lớn lao vào khả năng và trình độ tác chiến của Trung đoàn 687 sang vùng Hạ Lào.
Theo đồng chí Lê Ngọc Chinh, thời gian ở Hạ Lào, Trung đoàn 687 đã ổn định về nơi ăn chốn ở, chủ động truy quét Pol Pot, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi thương vong. Đó có thể là chiến sĩ tuổi đời còn rất trẻ, hay cán bộ đã nhiều năm chiến đấu bị trúng đạn, vướng mìn trong quá trình truy kích. Mặc dù lực lượng quân y dốc sức cứu chữa, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 sử dụng cả máy bay để tải thương, nhưng vì thuốc men thiếu thốn, vì vết thương quá nặng nên không qua khỏi. Dẫu biết rằng, chiến tranh không tránh khỏi hy sinh, nhưng sao vẫn tiếc thương, đau đáu về những người lính tình nguyện không tiếc thân mình vì nhiệm vụ quốc tế cao cả.