Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của 'ý Đảng lòng dân'

Một nửa thế kỷ đã lùi xa nhưng giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại và không khí hào hùng của Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 vẫn in đậm trong ký ức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và những lực lượng cách mạng, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới.

Chiến thắng đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt, tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta; là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của “thế trận lòng dân”; là nơi hòa quyện giữa “ý Đảng” với “lòng dân” để thêm một lần nữa làm sáng ngời biểu tượng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Trải qua 58 ngày đêm (từ ngày 4/3/1975, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên đến ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng) vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến đấu anh dũng, quyết liệt, trong điều kiện tình hình diễn biến hết sức mau lẹ và phức tạp, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã hoàn thành hồi kết cho cuộc đối đầu lịch sử giữa một dân tộc nhỏ bé về dáng vóc nhưng có sức mạnh ý chí phi thường với một cường quốc có tiềm lực kinh tế hùng mạnh, quân sự hiện đại, khoa học và công nghệ vượt trội, lớn mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, đó là đế quốc Mỹ.

Với những bước đi thần tốc “một ngày bằng hai mươi năm”, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đập tan bộ máy chiến tranh khổng lồ gồm hơn một triệu quân ngụy cùng bộ máy ngụy quyền tàn bạo và chế độ thực dân mới đã được đế quốc Mỹ dốc sức xây dựng suốt 5 đời tổng thống, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với những bước leo thang cao nhất trên tất cả các phương diện, đế quốc Mỹ và ngụy quyền ảo tưởng rằng chúng sẽ nhanh chóng giành thắng lợi, làm tan rã ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Nhưng đội quân nhà nghề và phương tiện chiến tranh hiện đại, tối tân bậc nhất thời đại của chúng đã vấp phải một thành trì vững chắc được xây bằng khối thống nhất “ý Đảng” và “lòng dân” nên chúng đã phải thất bại.

CHIẾN THẮNG CỦA “Ý ĐẢNG” HỢP “LÒNG DÂN”

Ý Đảng được thể hiện thông qua đường lối và sự lãnh đạo của Đảng trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, tình hình chiến trường, tình hình quốc tế và nước Mỹ đã biến chuyển thuận lợi, tạo điều kiện cho Nhân dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.

Đảng đã có một chiến lược rõ ràng và chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc chiến này. Chiến lược của Đảng không chỉ tập trung vào các hoạt động quân sự, mà còn tập trung vào việc giành được sự ủng hộ của Nhân dân và cải thiện đời sống Nhân dân với mục tiêu độc lập, thống nhất, dân chủ và tiến bộ cho Việt Nam. Đó là những giá trị mà Nhân dân Việt Nam luôn hướng đến. Đảng ta cũng khẳng định rằng đối tượng của cách mạng là đế quốc Mỹ và tay sai, chứ không phải tất cả người dân ở miền Nam. Điều này giúp Đảng ta giành được sự tin tưởng, ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân cả nước trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.

Bộ Chính trị kịp thời đánh giá thời cơ chiến lược và kiên quyết chớp thời cơ, xác định quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Chính sự đồng lòng quyết tâm chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối của Nhân dân cả nước từ Nam chí Bắc là cơ sở quan trọng để Bộ Chính trị, Trung ương Đảng chủ trương phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước và nêu rõ phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975, đến giải phóng trước mùa mưa năm 1975 và giải phóng trong tháng 4 năm 1975.

Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên đại thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã, động viên sức mạnh và những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền; các lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ các vùng bị địch chiếm đóng, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất đất nước.

Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo, vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Ngay từ đầu năm 1972, Đảng đã chỉ đạo: “Nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay là: với tinh thần kiên trì kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, phải động viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, kịp thời nắm vững thời cơ thuận lợi và tạo nên thời cơ mới”. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã được động viên, huy động đến đỉnh cao. Chính vì Đảng luôn ở trong dân, Đảng hết lòng vì dân, tin dân, tin vào sức mạnh dời non lấp biển của Nhân dân mà lòng dân luôn hướng theo Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta, cả hậu phương miền Bắc hướng về miền Nam, toàn thể đồng bào miền Nam đã sẵn sàng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới cũng hướng về Việt Nam, hướng về cuộc chiến đấu cuối cùng của Nhân dân miền Nam Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược đánh gục dã tâm của kẻ xâm lược cùng chế độ tay sai ngụy quân, ngụy quyền.

Đảng đã có đường lối tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân tham gia công tác chuẩn bị và trực tiếp chiến đấu trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975. Ta đã đánh địch trên khắp các mặt trận, chiến trường, đánh địch với tất cả vũ khí có trong tay, từ vũ khí thô sơ tự tạo đến vũ khí hiện đại, sử dụng hiệu quả các loại vũ khí của ta đồng thời lấy vũ khí địch đánh địch. Đảng đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân phối hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công; đánh địch trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao... Chính nhờ “ý Đảng” kết hợp với “lòng dân” mà từ gậy tầm vông, giáo mác đánh du kích, đến lối đánh hiệp đồng quân binh chủng quy mô nhiều quân đoàn chủ lực, dân tộc ta đã viết tiếp những trang sử vàng chói lọi trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975 - CHIẾN THẮNG CỦA “LÒNG DÂN” THEO “Ý ĐẢNG”

Sự ủng hộ và tham gia đông đảo của Nhân dân cùng với các lực lượng khác là một yếu tố quan trọng làm nên chiến thắng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975. Nhân dân luôn tin tưởng, kiên định theo đường lối lãnh đạo của Đảng, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng. Đảng ta luôn nhất quán quan điểm nước lấy dân làm gốc”, chú trọng xây dựng, củng cố, phát huy “thế trận lòng dân” lên tầm cao mới. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; dân không chỉ là gốc, dân là nền móng, dân như nước, mà dân còn là chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”(1). Nhân hòa ở đây thực chất là tinh thần hòa hợp, đồng lòng của toàn dân, biểu hiện tập trung ở lòng yêu nước, sự đoàn kết toàn dân “muôn người như một”, được ví như “bức thành đồng” vững chắc, vô địch mà không có đội quân xâm lăng nào có thể công phá được. Đó cũng chính là sức mạnh của cả nước đồng lòng, toàn Đảng, toàn dân một ý chí.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là cuộc đọ trí, đọ sức quyết liệt giữa quân và dân ta với đế quốc Mỹ và lực lượng tay sai. Có thể khẳng định rằng, trong bối cảnh tiềm lực quân sự chúng ta còn yếu; nếu không có “lòng dân”, Đảng không huy động được đông đảo sức mạnh của “lòng dân” thì không thể có chiến thắng vang dội này. Chiến thắng đó là sức mạnh của chính nghĩa, của truyền thống dân tộc, của đường lối chiến tranh nhân dân, sự khát khao hòa bình cháy bỏng của Nhân dân... và trên hết là sự gắn bó của Nhân dân với Đảng. Nhờ “lòng dân” tin theo chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng cho nên sức người, sức của được huy động tối đa; nhân dân vừa trực tiếp tham gia chiến đấu cùng với các lực lượng chủ lực, vừa tích cực sản xuất, làm tốt nhiệm vụ hậu phương, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử này.

“Lòng dân” theo “ý Đảng” trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 còn được thể hiện rõ nét qua khối lượng công việc khổng lồ cho công tác bảo đảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu của các lực lượng trên khắp các chiến trường, mặt trận, chiến dịch. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhân dân cả nước đã đoàn kết một lòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, biến quyết tâm thành hành động cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết chiến, quyết thắng. Ở miền Bắc, với nhiều phong trào thi đua, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia như phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, nông dân “tay cày, tay súng”, công nhân “tay búa, tay súng”, học sinh “làm nghìn việc tốt chống Mỹ cứu nước”… Nhân dân miền Nam “thành đồng của Tổ quốc” anh dũng chiến đấu, kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ ở chiến trường miền Nam. Chỉ có một niềm tin sắt son theo Đảng của toàn dân mới làm nên ý chí, hành động cách mạng, chiến đấu kiên cường, bất khuất, không chịu khuất phục kẻ thù xâm lược; làm cho lòng yêu nước của mỗi người dân đã hòa quyện, thống nhất với mục tiêu, lý tưởng khát vọng của Đảng; tạo nên hào khí sục sôi trong đấu tranh; huy động được sức mạnh to lớn của Nhân dân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ngày nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trước tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của mối đoàn kết mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, của “thế trận lòng dân” trong bảo vệ Tổ quốc và tổ chức triển khai thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, có các chính sách đầu tư và chính sách hỗ trợ Nhân dân phát triển kinh tế. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh; bảo đảm mỗi chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều gắn kết chặt chẽ với tăng cường quốc phòng an ninh, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng, củng cố địa bàn an toàn, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là vùng sâu, vùng xa, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn, địa bàn chiến lược, biên giới, hải đảo, khu kinh tế trọng điểm”. Phát triển kinh tế gắn với giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Tiếp tục đổi mới hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động Nhân dân; kịp thời, nhạy bén nhận diện, phân loại và kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn, những quan điểm sai trái, thù địch, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Thực hiện nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động Nhân dân không tin, không nghe theo kẻ xấu kích động, gây rối trật tự, an toàn xã hội, vượt biên trái phép, tham gia “tà đạo, đạo lạ” và các tổ chức bất hợp pháp. Giải quyết có hiệu quả nhu cầu, lợi ích chính đáng của Nhân dân, tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, không ngừng chăm lo đời sống Nhân dân; đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đồng thời, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống cho đội ngũ đảng viên; thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới… Qua đó, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân, giải quyết có hiệu quả các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những bức xúc của Nhân dân. Tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng niềm tin của Nhân dân với hệ thống cơ sở chính trị địa phương.

Từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, dựa vào dân, đoàn kết gắn bó mật thiết với Nhân dân là quy luật phát triển, cội nguồn sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta. Vì vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam cần được xây dựng vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt để xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, chỉ huy cần tập trung làm tốt công tác giáo dục để nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nhiệm vụ và trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân và Nhân dân ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo nhất là trên các địa bàn đặc biệt khó khăn, liên hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương nơi đóng quân, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân trên địa bàn, đi đầu giúp Nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Quan tân xây dựng và củng cố đoàn kết quân dân, góp phần quan trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân - dân.

Sự thống nhất bền chặt giữa “ý Đảng” với “lòng dân” trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 tiếp tục được phát huy trong giai đoạn mới sẽ góp phần tạo ra tiền đề, động lực mạnh mẽ để tập hợp, huy động, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hiện thực hóa các các mục tiêu vĩ đại trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

* Danh mục tài liệu tham khảo:

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.594.

- Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, Hà Nội, 1990.

- Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân, Đại thắng mùa Xuân 1975 - Chiến thắng của sức mạnh Việt Nam, Hà Nội, 2005.

- Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật; Hà Nội.

- Tô Lâm (2024), Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 01/11/2024.

Trung tá, T.S HỒ MẠNH CƯỜNG

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/chinh-tri/202504/dai-thang-mua-xuan-nam-1975-chien-thang-cua-y-dang-long-dan-53b6b27/
Zalo