Đa đoan độc đáo Hồ Nguyên Trừng

Rành rẽ trong chính sử nước nhà, Hồ Nguyên Trừng (1374-1446) con trưởng của Hồ Quý Ly, lẽ thường phải được cha truyền ngôi báu. Nhưng, Hồ Quý Ly đã đưa người em trai của Hồ Nguyên Trừng là Hồ Hán Thương lên thay.

1. Đại Việt Sử ký toàn thư” (Toàn thư) từng chép việc Hồ Quý Ly muốn biết Hồ Nguyên Trừng có khẩu khí làm vua hay không, bèn ra câu đối: “Thử nhất quyển kỳ thạch, hữu thì vi vân vi vũ dĩ nhuận sinh dân” (Hòn đá lạ bằng nắm tay này, có lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân).

Trừng đáp lại: “Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc” (Cây thông nhỏ mới ba tấc kia, ngày sau làm rường làm cột để chống nâng xã tắc).

Hồ Nguyên Trừng (tranh minh họa).

Hồ Nguyên Trừng (tranh minh họa).

Nghe hai từ “lương đống” (rường cột), Hồ Quý Ly giật mình nghĩ xa đến việc ông con này hẳn có mộng vương bá! Tuy không đưa Trừng lên làm vua nhưng vẫn được Hồ Quý Ly ban quyền tổng chỉ huy quân đội. Sử chép khi họa ngoại xâm quân Minh sắp sang, mối lo lớn nhất của Trừng là sợ dân không theo, nên đã thẳng thừng tâu với Quý Ly đúng như hiện trạng Đại Việt khi ấy “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”.

Khi bị bắt giải về Yên Kinh, Hồ Nguyên Trừng có lẽ cầm chắc cái chết. Nhưng, không phải vậy! Biết tài của Trừng, Vua Minh Thành Tổ ân xá nhưng bắt đổi sang họ Lê.

2. Thật thú vị khi được lần giở “Minh Thực lục”, bộ biên niên sử viết về triều Minh Trung Quốc do Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 2019. “Minh Thực lục” ghi lại các sự kiện bắt đầu từ thời Minh Thái Tổ tới Minh Hy Tông, tổng cộng là 13 triều vua. Ngạc nhiên biết thêm Hồ Nguyên Trừng, một tù binh nhưng đã được quân đội Minh tế khi sống lẫn chết!

Minh Thực lục” đã tỷ mẩn kê biên gần hai chục tước vị của Hồ Nguyên Trừng khi bị bắt! Tước vị sau cùng là Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc sự, Tứ Kim Ngư Đại, Thượng trụ quốc, Vệ Quốc Đại Vương. Ý chừng như muốn khoe rằng, kẻ thù của nhà Minh khi ấy cũng chả phải là tay vừa mà dạng tầm cỡ?

Một góc thành nhà Hồ còn tồn tại đến ngày nay.

Một góc thành nhà Hồ còn tồn tại đến ngày nay.

“Ngày 3 tháng Giêng năm Tuyên Đức thứ 33 (18/1/1428), Mệnh Hữu Thị Lang bộ Công Lê Trừng tại nơi hành tại được cấp lương tháng toàn bằng gạo. Trừng là anh của chúa ngụy cũ An Nam, Lê Thương. Trước kia Trừng bị bắt đến kinh đô, Thái Tông Văn Hoàng đế xá tội và dùng; khởi đầu trao chức Chủ sự Bộ Công, Thiên tử (Tuyên Tông) tức vị được thăng Lang trung nội thần. Nghe tâu nhà nghèo, bèn thăng chức Thị lang; đến nay lại ra lệnh cấp bổng hàng tháng toàn bằng gạo”. (Minh Thực lục, tập 2, trang 185 - NXB Hà Nội 2019).

Cũng không khỏi ngạc nhiên và phân vân trước một mảng sử của triều Minh. Bởi, ở chức chủ sự Bộ Công rồi mà Hồ Nguyên Trừng vẫn than nghèo khiến vua Minh phải cấp lương bằng gạo hằng tháng? Vậy, số lương thực này là bao nhiêu cân ta hoặc kilôgam?

Tìm hiểu về Hồ Nguyên Trừng, ngoài những dòng sơ sài trong “Minh Thực lục” phải nhờ đến các tài liệu sử cũ. Những sách ấy ghi lại Hồ Nguyên Trừng làm quan đến chức Tả thị lang (tương đương thứ trưởng) nhưng sau này các bộ Minh sử được xuất bản lại ghi đầy đủ hơn thì Hồ Nguyên Trừng đã được phong đến chức Thượng thư Bộ Công (tương đương bộ trưởng), ngoài chế tạo vũ khí còn chuyên chế tạo đồ ngự dụng cho nhà vua sử dụng. Khó hình dung được một tù binh người Đại Việt mà lại được nhà Minh hậu đãi đến vậy. Điều này chứng tỏ nhà Minh rất thực dụng trong việc sử dụng người tài! Họ đã không phân biệt lý lịch nhưng cũng cho thấy tài năng kiệt xuất của Hồ Nguyên Trừng.

Cuốn “Hoàng triều kỳ sự thuật” (Kể những việc lạ triều Minh), sử gia nổi tiếng thời Minh Vương Thế Trinh đã chép thế này: “Một người Giao Chỉ, tên Lê Trừng, chưa hề đậu đại khoa (tiến sĩ) lại được đặc cách giữ chức Thượng thư Bộ Công!”.

Rồi sách “Vạn Lịch dã hoạch biên” ca tụng Lê Trừng là người đầu tiên chế tạo hỏa khí cho Trung Quốc: “Bản triều (triều Minh) dùng hỏa khí đánh giặc, là chiến cụ công hiệu bậc nhất từ xưa đến nay; nhưng sự tinh diệu của khí giới này có được từ khi Văn Hoàng đế (Thái Tông) bình Giao Chỉ. Thái Tông đã dùng ngụy Tướng quốc Ðại vương Lê Trừng nước Việt làm quan Bộ Công chuyên việc chế tạo và lưu truyền từ đấy. Nay, trong cấm quân có cơ quan gọi là Thần Cơ doanh, binh sĩ doanh này là những người chuyên chế tạo hỏa pháo. Người đương thời cho rằng các kỹ thuật thần kỳ từ xưa đến nay không thể hơn được”.

Sách “Minh sử cảo” từng chép nhà Minh lập cả một binh đoàn sử dụng súng, sau này đánh nhau với Mông Cổ đã phát huy tác dụng rất cao. Vì vậy, “Minh sử cảo” còn ghi lại là quân Minh khi tế súng đều tế Hồ Nguyên Trừng như là thần súng.

Có thủ tục tế trong cung đình “Kim Cổ hiệu giác thiết pháo chi thần” tức tế Lê Trừng. Sách “Dã ký” chép thêm: “Nay phàm tế binh khí đều tế Lê Trừng”.

Ngạc nhiên khi tìm thấy những dòng trong “Minh Thực lục”. Đó là chuyện suốt 9 năm Hồ Nguyên Trừng không biết nguyên nhân gì đã không đến nạp lý lịch cho Bộ Công. Việc làm này trái với quy định hành chánh thời bấy giờ, ắt phải được bạn đồng liêu, cùng cấp chỉ huy trực tiếp nhắc nhở; nhưng Trừng không thay đổi ý định, để cuối cùng bị Bộ Hộ đàn hặc và vua nhà Minh phải đích thân để mắt tới. May thay, đã tha tội cho Hồ Nguyên Trừng!

Lý giải và nên hiểu ra sao với hành động chống đối này? Chỉ có thể là ngầm rằng “ta không thèm chức tước của các ngươi!”. Một phản ứng yếu ớt đại loại, “ta bị các người ép vào con đường cùng chỉ vì nghĩ đến mạng sống mà ta đành ngậm miệng đó thôi. Và, cái việc ta nghĩ ra các mẹo chế tác súng ống cũng chỉ là do thời thế ép buộc?”.

Nhưng, Hồ Nguyên Trừng đang nằm trong tay những kẻ mưu kế thâm hậu! Lạ thay, chúng không o ép, bắt khoan bắt nhặt theo kiểu thói thường mà lại tiếp tục... thăng chức, bổng lộc hậu hĩ cho Hồ Nguyên Trừng cho đến khi chết!

“Thành Hóa ngũ niên, tứ nguyệt, Giáp Tý (ngày 21/5/1469). Lấy con của viên Công Bộ hữu thị lang Lê Thúc Lâm là Thế Vinh làm Trung thư xá nhân. Thúc Lâm là người Giao Chỉ, cha tên Trừng, là em của con (Lê) Quý Ly là (Lê) Thương, vốn là tù binh bị bắt về (Trung Quốc). Thái Tông Văn Hoàng Đế tha tội cho y (Trừng) và dùng làm quan, chuyên coi sóc việc chế tạo súng, đạn, thuốc nổ tại Binh trượng cục, cuối cùng làm đến Công Bộ Thượng thư. Thúc Lâm kế nghiệp cha, tiếp tục giám đốc việc chế tạo quân khí. Đến nay (Lê Thúc Lâm) xin cho con của y là Thế Vinh làm quan tại kinh đô để tiện cho việc chăm sóc. Hoàng đế nghĩ đến hoàn cảnh người từ phương xa đến, nên rủ lòng chấp thuận đề nghị ấy.

Lê Trừng, Lê Thúc Lâm, Lê Kế Lâm đều được an táng tại thôn Nam An Hà”. (“Minh Thực lục”, Tập III. Trang 84. NXB Hà Nội, 2019).

Nhưng, vị Thượng thư Bộ Công nhà Minh kiêm Tổng công trình sư của những súng, đạn, thuốc nổ tại Binh Trượng cục lại là một nhà văn! Cuốn “Nam ông mộng lục” (Ghi lại giấc mơ của ông lão người Nam) bằng cớ về nỗi u hoài cố quốc?

Mặc dù “Nam ông mộng lục” được xuất bản hẳn hoi dưới triều Minh (khắc in) nhưng trong “Minh Thực lục” không hề có một dòng nào nhắc đến việc ấy! Nhưng, trước tác của Hồ Nguyên Trừng đã được Hồ Huỳnh, Thượng thư Bộ Lễ triều Minh trực tiếp đề từ năm 1440. Hồ Huỳnh viết như này: “Văn họ Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác, theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục, biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể nuôi dưỡng tính tình...”.

Thượng thư Bộ Lễ Hồ Huỳnh cũng nhắc lại lời Hồ Nguyên Trừng mở đầu sách “Nam ông mộng lục”: “Trong xóm mười nhà thể nào cũng có người tín nghĩa như Khổng Tử, huống hồ nhân vật nước Nam không kể hết”.

Ta hãy tưởng tượng, sau thời điểm bình Giao Chỉ, 17.000 quan và dân Đại Việt đã bị giặc Minh bắt sang Trung Quốc!

Độc đáo thay hai chữ “mộng lục”, Hồ Nguyên Trừng kể lại trong sách ấy rằng, có người hỏi sao lại dùng chữ mộng? Trừng cười, chua chát mà rằng: “Bởi, sách chép về những chuyện của nước Nam mà những nhân vật, khung cảnh ấy, đất nước cố quốc ấy bỗng chốc vời xa thăm thẳm không thể trở về được! Vậy, không phải là giấc mộng là gì?”.

Dường như những phút ngã lòng với thân phận lưu vong nơi đất Bắc, Hồ Nguyên Trừng đã phải vịn vào những tấm gương tiết liệt trung dũng và nghĩa khí của Đại Việt? Có lẽ Hồ Nguyên Trừng là nhà viết văn, sử đầu tiên của Đại Việt viết về Chu Văn An, Lê Phụng Hiểu, Trần Nhân Tông, Khổng Minh Không... Viết và bàn về danh nhân Đại Việt một cách bình tĩnh và tương đối khách quan trong “Nam ông mộng lục” cũng là một cách vị Thượng thư triều Minh ấy thêm chút sinh khí để gượng tiếp những ngày sống tàn nơi đất khách, quê người?

May nhờ sách “Nam ông mộng lục”, hậu thế mới phần nào hình dung được đất nước con người Việt Nam cách đây hơn 600 năm. Các mảng đời sống, tín ngưỡng, phong tục, lề thói... rất sinh động và chân thật.

Bao nhiêu là những bâng khuâng lẫn phân vân khi ngó lại những dòng của “Minh Thực lục”.

Lê Trừng, Lê Thúc Lâm, Lê Thế Vinh đều được an táng tại thôn Nam An Hà. Như vậy, cả 3 đời ông, cha, con Hồ Nguyên Trừng đều an táng trên đất Trung Hoa, mà mộ chí đều ở thôn Nam An Hà. Nam An Hà là ở đâu trên đất Trung Hoa mênh mông kia? May thay, sau này, nhà sử học Trung Hoa Trương Thái Du có chú thêm thôn Nam An Hà thuộc xã Bắc An Hà, khu Hải Điện, TP Bắc Kinh.

Xuân Ba

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/da-doan-doc-dao-ho-nguyen-trung-i769510/
Zalo