Cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn, nhà báo, liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, Duy Xuyên là vùng đất máu lửa, nơi diễn ra những trận chiến ác liệt giữa quân dân ta với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo ở miền Bắc đã tình nguyện vào Nam chiến đấu, dâng hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong số đó có nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý - người đã sống, làm việc và anh dũng hy sinh tại xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên. Cuộc đời và sự nghiệp của chị là tấm gương cao đẹp của tuổi trẻ trí thức Việt Nam, là di sản lịch sử - văn hóa quý báu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Dương Thị Xuân Quý sinh ngày 19/4/1941 tại phố Hàng Bông, Hà Nội; quê gốc ở thôn Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chị sinh ra trong một dòng tộc trí thức, văn chương yêu nước nổi tiếng. Ông nội chị - cụ Dương Trọng Phổ và bác ruột là ông Dương Bá Trạc đều từng tham gia vận động Đông Kinh Nghĩa Thục, bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo. Phụ thân chị, ông Dương Tụ Quán, là người chủ trương tờ Văn học Tạp chí, sau là tạp chí Tri Tân. Một người bác ruột khác là nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng Dương Quảng Hàm. Hai người anh họ của chị là các họa sĩ danh tiếng Dương Bích Liên, Dương Cẩm Chương... Truyền thống dòng tộc đã sớm khơi dậy trong Dương Thị Xuân Quý niềm đam mê cầm bút. Khát vọng đi và viết hình thành trong chị từ rất sớm.
Đang theo học trung cấp Mỏ tại Quảng Ninh, Dương Thị Xuân Quý đã xin chuyển về khoa Báo chí, Trường Tuyên huấn Trung ương. Năm 20 tuổi, chị trở thành phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, làm việc tại đây từ năm 1961 đến 1968. Những năm tháng ấy, với chiếc xe đạp lọc cọc, chị thường xuyên có mặt tại nhiều vùng nông thôn từ Thái Bình, Thanh Hóa, Hải Hưng, Nghệ Tĩnh đến ngoại thành Hà Nội. Chị đến với nông thôn không chỉ với tư cách một nhà báo, mà còn để sống cùng cuộc sống của những người nông dân chân lấm tay bùn, một nắng hai sương.
Tháng 2/1966, chị lập gia đình với nhà thơ Bùi Minh Quốc. Khi mang thai đến tháng thứ sáu, Dương Thị Xuân Quý vẫn về Quảng Nạp (Thái Bình), cùng bà con xã viên đi cấy, đi gặt. Bà con nơi đây vô cùng ngạc nhiên trước một cô gái Hà Nội vừa biết cấy gặt, vừa biết gồng gánh như chính họ. Khi giặc Mỹ ném bom miền Bắc, chị đã có mặt tại các vùng trọng điểm tuyến lửa như Nghệ An, Hà Tĩnh vào năm 1965.
Từ những chuyến đi tâm huyết ấy, chị đã viết 14 truyện ký tươi mới, xúc động về những người nông dân bình dị, đang nỗ lực vượt qua đói nghèo, lạc hậu, vươn lên làm chủ cuộc sống, sẵn sàng bảo vệ quê hương như: Sa mạc của tuổi thơ, Đất cằn, Về làng, Chuyện cô Duyên, Đảm đang, Đứng vững, Chỗ đứng, Nữ dân quân Trần Phú… Từ giữa những năm 1960, với những tác phẩm đầy sức sống ấy, Dương Thị Xuân Quý nổi lên như một trong những nhà văn trẻ tài năng của văn đàn miền Bắc XHCN.
Năm 1965, chị viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Trong thư, chị viết: “Tôi là Dương Thị Xuân Quý, đoàn viên thanh niên lao động, phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam. Tôi làm đơn này xin tổ chức cho tôi được vào miền Nam chiến đấu. Tôi 24 tuổi, hoàn toàn khỏe mạnh, đã 10 năm qua không ốm đau bệnh tật gì. Nếu được vào Nam chiến đấu, tôi có thể làm các công việc dạy học, làm báo, công tác Đoàn, công tác thiếu nhi. Miền Nam cần tôi làm gì, ở đâu, tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không mảy may tính toán. Tôi không sợ gian khổ, hy sinh, chỉ sợ không được chọn làm những việc vinh quang để phục vụ cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược.”
Phải đến tháng 4/1968, tổ chức mới chấp thuận nguyện vọng của chị. Ngày 14/6/1968, Dương Thị Xuân Quý lên đường vào chiến trường Quảng Nam, gửi lại con gái Dương Hương Ly mới 16 tháng tuổi cho mẹ ruột chăm sóc. Tại chiến trường, chị tham gia gùi gạo, đào hầm, chống các đợt càn quét của địch và ghi lại những năm tháng ác liệt, hào hùng của nhân dân Quảng Đà.
Trong một lá thư gửi con gái, chị viết: “… Mẹ đã thầm hứa với con: từ nay phải bắt đầu những trang viết. Phải có thật nhanh những sáng tác từ chuyến đi kỳ diệu này... Mẹ sẽ vượt qua tất cả: sự vất vả, nỗi gian khổ và những khó khăn... Mẹ sẽ hết sức tranh thủ để có thể viết được, con nhé.”
Chồng chị - nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng đã vào Nam trước đó, với tinh thần: “Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt”.
Trong sáng tác của mình, chị luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho nữ quyền. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam dù ở hậu phương hay tiền tuyến luôn được chị khắc họa như những con người mạnh mẽ, dũng cảm, biết khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Điều đó thể hiện rõ qua các tác phẩm như Đất cằn, Chỗ đứng, Chuyện cô Duyên, Không coi thường việc nhỏ… Nhân vật chính trong tác phẩm của chị là những người phụ nữ mới, không ngừng đấu tranh cho quyền bình đẳng, dù trong hoàn cảnh khốc liệt vẫn kiên cường vươn lên.
Đêm 8/3/1969, Dương Thị Xuân Quý anh dũng hy sinh tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay là xã Duy Thành), huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam trong một trận càn ác liệt của lính Nam Triều Tiên, khi chị cùng đồng đội từ hầm bí mật bò lên tìm đường thoát khỏi vòng vây.
Ngã xuống ở tuổi 28 tươi đẹp nhất của cuộc đời, Dương Thị Xuân Quý để lại nhiều tác phẩm báo chí và văn chương có giá trị. Trên lĩnh vực văn học, chị có các tác phẩm:
Về làng, tập truyện ngắn đầu tay, xuất bản năm 1960.
Chỗ đứng, tập truyện và ký, xuất bản năm 1968.
Hoa rừng, tập truyện ngắn và bút ký, xuất bản năm 1970.
Nhật ký chiến trường, xuất bản năm 1970.
Nhật ký chiến trường là cuốn nhật ký riêng, đồng thời là ghi chép sống động về cuộc sống và chiến đấu gian khổ nhưng kiên cường, hào hùng của bộ đội và nhân dân ta từ dọc đường Trường Sơn đến chiến khu Khu 5 sau Tết Mậu Thân 1968. Tác phẩm cũng là minh chứng về tinh thần dấn thân, sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ của các văn nghệ sĩ, trong đó có Dương Thị Xuân Quý, đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Những cống hiến và hy sinh của chị đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Dương Thị Xuân Quý được cấp Bằng “Tổ quốc ghi công” vào tháng 5/1972 và được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào tháng 2/2007.
Vào chiến trường, chị luôn ý thức sâu sắc về sứ mệnh của người cầm bút, tranh thủ từng giờ, từng phút để sáng tác. Thân hình mảnh mai, nhỏ bé, nhưng chị khoác ba lô nặng hơn 30 kg, thường xuyên đến những nơi nguy hiểm nhất. Giữa những đợt gùi cõng, phát rẫy, hay trong làn mưa bom B52, giữa cơn đói, cơn sốt rét… chị vẫn viết. Hoa rừng, Tiếng hát trong hang đá, Gương mặt thách thức, Niềm vui thầm lặng là những tác phẩm chị viết trong hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến trường. Nhân vật Phước – cô giao liên trong Hoa rừng là hình ảnh cô gái kiên cường, gan dạ, dẫn đường cho bộ đội vượt qua hiểm nguy. Soan - cô gái đội vận chuyển trong Niềm vui thầm lặng, là một điển hình của lớp phụ nữ mới đầy bản lĩnh và hy sinh.