Con đường thật chứng bất tử của Đức Phật trong kinh Thánh cầu
NSGN - Kinh Thánh cầu là bài kinh số 26 thuộc Trung bộ (Majjhima Nikāya). Nội dung kinh nói về con đường tìm cầu giải thoát tối thượng của Thái tử Siddhārtha Gautama.
Sau khi chứng đắc tam minh, lục thông, Thái tử thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác, thấu triệt mọi ngọn nguồn nhân quả sinh khởi của con người và vũ trụ. Ngài quyết định tuyên thuyết Chánh pháp, mở cánh cửa bất tử nhiếp hóa chúng sanh, đem lại lợi ích cho chư thiên và loài người.
Về khái niệm bất tử
Khái niệm bất tử, “Amatam adhigataṁ” (Pháp bất tử đã được tìm thấy), như một lời cảm thán sau khi Đức Phật thấu triệt muôn kiếp nhân sinh trong hoàn vũ.
Sau khi chứng đắc Chánh đẳng giác, Ngài biết rằng “Ta đã được giải thoát” (Vimutto’smi) và Ngài nhận thức rằng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”1. [Trung bộ, T.1, tr.308].
Đây là tuệ giác mà Đức Phật đã thực chứng được trong canh cuối, sau 49 ngày quán chiếu nội tâm sâu kín bên trong chính mình. Bằng tuệ giác quán chiếu, Ngài đoạn trừ vô minh, làm phát sinh trí tuệ, xua tan bóng tối của đêm dài u ám. Bóng tối đã tan, ánh bình minh tỏ rạng, cuộc sống mầu nhiệm bắt đầu. Với tình thương vô ngã, vị tha, bao dung khắp muôn loài, Đức Thế Tôn quyết định tuyên thuyết giáo pháp bất tử cho tất cả chúng sanh. Qua lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, Đức Phật quyết định mở rộng cửa bất tử cho những ai chịu nghe. “Để chuyển bánh xe pháp, Ta đến thành Kāsi, gióng lên trống bất tử, trong thế giới mù lòa”. (Dhammacakkaṁ pavattetuṁ gacchāmi Kāsinaṁ, andhabhūtasmiṁ lokasmiṁ āhañchaṁ amatadundubhin-ti).
Yếu nghĩa bất tử mà Đức Phật thực chứng chính là con đường giác ngộ, đạt đến cảnh giới giải thoát, chứng đắc Niết-bàn an lạc. Đó cũng chính là con đường Đức Phật muốn truyền dạy, hướng dẫn cho tất cả chúng sanh. Bất tử ở đây chính là thực tại sống, sống trong trạng thái thân tâm đã hoàn toàn cởi bỏ mọi ràng buộc của trần sa phiền não, không còn vô minh u ám, dứt trừ mọi dục vọng, trở thành một con người hoàn toàn tự do, tự tại.
Khái niệm bất tử được thốt ra đầy cảm thán từ kim khẩu của Đức Thế Tôn sau khi đại ngộ, “Amatam adhigataṁ”, “Pháp bất tử đã chứng được” hay “Pháp bất tử đã được tìm thấy”. Như vậy, “bất tử” là có thực. Bất tử ở đây không có nghĩa là trẻ mãi không già hay sống hoài không chết. Qua lời cảm thán của Đức Phật, bất tử là trạng thái tâm đã hoàn toàn giác ngộ, sau khi đoạn trừ vô minh, vượt bể ái dục, sinh tử, chứng đắc giải thoát. Bất tử còn có nghĩa là tự do, tự tại, an nhiên, giải thoát. Trạng thái tâm an lạc, giải thoát này nó vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Nó chính là “tâm chân như”, là “bản lai diện mục”, là “chủng tử Phật” mà đa phần con người thường quên mất, hay bị vô minh, phiền não che lấp. Một khi thức tĩnh chân tâm, trí tuệ bừng sáng thì vô minh, phiền não tan biến. Vô minh được đoạn trừ, phiền não không còn thì thấy rõ được tự tánh Phật bên trong mình, thấy được mặt mũi chân thực xưa nay của chính mình, đó là tâm chân như thanh tịnh, tự do, tự tại, an nhiên giữa cuộc đời. Đây là yếu nghĩa của khái niệm bất tử.
Con đường thực chứng bất tử của Đức Phật
Con đường thực chứng bất tử của Đức Phật chính là con đường tìm cầu giải thoát tối thượng. Ở đây xin trình bày về “con đường giải thoát” qua lời tự thuật của Đức Phật trong kinh Thánh cầu.
Để tìm cầu con đường giải thoát tối thượng, đạt bất tử, Đức Thế Tôn dạy, “Này các Tỷ-kheo, có hai loại tìm cầu, đó là Thánh cầu và phi Thánh cầu. Như thế nào gọi là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh..., tự mình bị chết..., tự mình bị sầu..., tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái ô nhiễm”. [Trung bộ, T.1, tr.212].
Ở đây, những gì gọi là bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu, bị ô nhiễm đó là cái ta và cái của ta, ngã và ngã sở. Chúng ta bị sự tác động của sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ, ưu não..., lại tự mình đi tìm cầu những thứ cũng bị tác động bởi sanh, già, bệnh, chết... Ví như vợ con, tôi tớ, súc vật, vàng bạc… tất cả những thứ này đều bị chi phối bởi sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, phiền não, nhưng chúng ta lại chấp thủ vào chúng để rồi chính mình là cái bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già..., tìm cầu bệnh, chết... Chính mình đang bị ô nhiễm lại đi tìm cầu sự ô nhiễm và bị chúng trói buộc, tham đắm, chấp thủ. Đây gọi là phi Thánh cầu. Phi Thánh cầu là con đường lầm lạc, chấp thủ mà đa phần chúng ta mắc phải. Mặc dù biết cuộc đời vốn duyên sinh vô thường, sinh, lão, bệnh, tử, phiền não luôn rình chờ, song con người luôn mãi mê, rong ruỗi đuổi hình bắt bóng, rồi chìm đắm trong sinh tử luân hồi. Nói là biết nhưng cái biết của người trần mắt thịt, cái biết chưa có trí tuệ nên chính mình bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu..., lại tìm cầu và đeo thêm vào cổ những thứ sầu bi, khổ ưu não ấy. Đó chính cái biết chưa có trí tuệ, còn bị vô minh khuất lấp. Đó chính là con đường sai lầm khi tìm đạo giải thoát hay còn gọi là phi Thánh cầu.
Và như thế nào gọi là Thánh cầu? Thánh cầu là tìm cầu con đường an tịnh, giải thoát tối thượng. Ngược lại với phi Thánh cầu, Thánh cầu là khi biết mình bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu..., liền xa lìa và tìm cầu cái không bị sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ, ưu não... “Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách.” [Trung bộ, T.1, tr.213]. Đó gọi là Thánh cầu.
Đức Thế Tôn khi chưa chứng đắc quả vị tối thượng, khi còn là một vị Bồ-tát, Ngài tự mình bị sanh, già, bệnh, chết, sầu..., lại đi tìm cầu cái bị sanh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm. Nhưng bằng như lý tác ý, Ngài nghĩ tại sao mình đã bị sanh, già, bệnh... lại tìm cầu những thứ sanh, già, bệnh, chết... Do đó, sau khi nhận biết sự nguy hại của sanh, già, bệnh, chết, sự ô nhiễm, phiền não, Ngài tìm cầu cái vô sanh, bất tử, chứng đắc vô thượng an ổn, giải thoát, Niết-bàn.
Khi còn trẻ, vào một buổi lễ hạ điền, Đức Phật đã thấy được nỗi thống khổ của chúng sinh, nhân đó Ngài quán chiếu và nhập vào sơ thiền. Và nhận biết thật tướng vô thường của vạn pháp khi du ngoạn bốn cổng thành, chứng kiến cảnh sanh, già, bệnh, chết... của chúng sanh, từ đó Ngài âm thầm nuôi chí nguyện xuất trần tìm cầu con đường bất tử cho chính mình và cho cả nhân loại. Sau khi rời bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con thơ, Ngài quyết chí xuất gia tầm đạo.
Sau khi xuất gia, Ngài tầm sư học đạo với nhiều người. Đầu tiên Bồ-tát Siddhartha tìm đến và học đạo với vị thầy Ālạ̄ra Kālāma. Pháp mà đạo sĩ Ālạ̄ra Kālāma truyền dạy cho Bồ-tát là định Vô sở hữu xứ. Không bao lâu sau, Bồ-tát Siddhartha đã thâm nhập và an trú trong pháp định Vô sở hữu xứ, với thượng trí “tự tri, tự chứng, tự đạt”. Pháp mà Bồ-tát chứng đạt là pháp mà Ālạ̄ra Kālāma đã chứng đắc và tuyên thuyết. Ālạ̄ra Kālāma lại đặt Bồ-tát Siddhartha ngang hàng với mình để cùng dạy bảo đồ chúng. Tuy nhiên Ngài nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ”. [Trung bộ, T.1, tr.215].
Và như thế, pháp đó không phải sở cầu tối thượng của Bồ-tát nên Ngài không cung kính pháp đó, và từ bỏ pháp đó. Và Bồ-tát vẫn tiếp tục đi tìm cầu cái chí thiện, tìm sự an tịnh, giải thoát tối thượng.
Và rồi Ngài tìm đến học đạo với đạo sĩ Uddaka Rāmaputta. Pháp mà Uddaka Rāmaputta tuyên thuyết và truyền dạy đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chẳng bao lâu Bồ-tát đã thông suốt pháp ấy. Ngài đến thưa cùng đạo sĩ, “Có phải hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?” “Vâng hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. [Trung bộ, T.1, tr.216].
Vị đạo sư tiếp theo là Uddaka Rāmaputta cũng xem Bồ-tát ngang hàng với ông và tôn sùng Ngài một cách tối thượng. Lúc ngày, Ngài nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi tưởng xứ”. Và như thế, thất vọng, Ngài từ bỏ pháp đó, tiếp tục lên đường tìm cầu giải thoát tối thượng. Sau khi rời bỏ đạo sĩ Uddaka Rāmaputta, Ngài đến thực tập tu khổ hạnh tại Uruvelā gần Senānīnigama. Ngài đã quán chiếu thân tâm và thực hành các pháp khổ hạnh như nghiến chặt răng, ấn lưỡi lên nóc họng, thực tập thiền nín thở ở các cấp độ từ thấp đến cao, thực hành phương pháp ăn ít, cho đến mỗi ngày ăn chỉ một hạt mè... Thực tập như vậy cho đến khi thân thể khô gầy, sức lực cạn kiệt, đau đớn. Mặc dù trải qua những cảm thọ đau đớn tột cùng, nhưng việc tu hành pháp khổ hạnh này vẫn không giúp Ngài thành tựu con đường tối thượng là tri kiến của bậc Thánh. Do đó, Ngài từ bỏ các pháp ấy và quyết định trở về với chính mình tu tập nội quán dưới cội cây Pippala (Tất-bát-la, Bồ-đề) trong 49 ngày. Ngài thấy: “Ta tự mình chịu sự tác động của bị sanh, thấy rõ pháp bị sanh, nên tìm cầu an tịnh giải thoát tối thượng của cái vô sanh, và đã thực chứng được pháp ấy, an tịnh, giải thoát tối thượng, đó là Niết-bàn. Tự mình bị tác động của già, bệnh, chết, sầu... biết rõ sự nguy hại sâu xa của già, bệnh, chết, sầu...”. Ngài tìm cầu cái vô sầu an tịnh, giải thoát tối thượng và thực chứng được các pháp ấy. Khi biết tự mình bị ô nhiễm, biết rõ sự nguy hại của nó, Ngài tìm cầu cái vô nhiễm (không bị ô nhiễm) an tịnh, giải thoát tối thượng và chứng đắc được pháp vô nhiễm, đạt an tịnh, giải thoát tối thượng, Niết-bàn. Và trí kiến, pháp nhãn nơi Ngài khởi lên: “Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nào nữa”. [Trung bộ, T.1, tr.218]. Đây chính là tuệ giác cuối cùng mà Bồ-tát Siddhartha chứng ngộ trong canh cuối. Ngài đã đại giác, đại ngộ, chứng đắc quả vị Chánh đẳng giác thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Khi bóng tối vô minh được xua tan, ánh sáng trí tuệ sinh khởi, Ngài cảm thán rằng:
“Lang thang bao kiếp sống,
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sinh.
Ôi người làm nhà kia,
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa,
Đòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tan.
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong”.
(Pháp cú, kệ 153-154)
____________
(1) Khiṇā jāti, vuditaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇiyaṃ nāparaṃ itthattāyā’ti.
Tài liệu tham khảo
- Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2015), Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền (toàn tập), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.
- Kinh tạng Pāli (bộ II), Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya) (tập 1), Thích Minh Châu (dịch và chú thích - 1973), Pāli - Việt đối chiếu, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn - Việt Nam.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Phân viện Nghiên cứu Phật học (2008), Từ điển Phật học Hán-Việt, NXB.Khoa học Xã hội, TP.HCM.
- H.W. Schumann (2000), Trần Phương Lan (dịch), Đức Phật lịch sử, NXB.TP.Hồ Chí Minh.
- Nārada Mahā Thera (2019), Phạm Kim Khánh (dịch), Đức Phật và Phật pháp, NXB.Tổng Hợp, TP.Hồ Chí Minh.
- Nyanaponica Thera (2009), Thích Chơn Thiện (dịch), Trái tim thiền định Phật giáo, NXB.Phương Đông, TP.Hồ Chí Minh.
- O.O. Rozenberg (1990), Ngô Văn Doanh - Nguyễn Hùng Hậu (dịch), Phật giáo những vấn đề triết học, Trung tâm Tư liệu Phật học, Hà Nội.
- Pa Auk Tawya Sayadaw (2019), Bhikkhu Abhikusala - Siêu Thiện (Việt ngữ), Pháp tu tiến đến Nibbāna (phần 1), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.
(NSGN 339)