Cơ hội, thách thức và dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2025
Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2025 tiếp tục thuộc nhóm các nền kinh tế có tăng trưởng cao trên thế giới. Trên cơ sở phân tích cơ hội, thách thức trong năm tới, các chuyên gia kinh tế đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2025 đạt mức cao hơn các mức dự báo nêu trên…
Những cơ hội của kinh tế Việt Nam trong năm 2025
Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh (Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) và các cộng sự phân tích, trong bối cảnh kinh tế thế giới năm 2025 còn nhiều bất định, giá cả hàng hóa có thể biến động đáng kể, cạnh tranh giữa các siêu cường gia tăng, cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục phát triển mạnh mẽ, kinh tế Việt Nam có thể có những cơ hội quan trọng.
Cơ hội thứ nhất là xu hướng phát triển của khoa học công nghệ có thể giúp Việt Nam thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành, hoạt động, sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng, khoa học công nghệ cao hơn.
Khảo sát của Công ty kiểm toán PwC năm 2024 cho thấy, những ngành có mức độ thâm nhập trí tuệ nhân tạo (AI) cao nhất có thể tăng năng suất lao động tới 4,8 lần. Ở một số thị trường, những việc làm đòi hỏi các kỹ năng AI đặc thù có thể trả mức lương cao hơn tới 25%.
Cơ hội thứ hai là Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút tốt đầu tư nước ngoài (FDI). Khảo sát của Công ty tư vấn quản lý Bain & Company của Mỹ cho thấy, các nhà đầu tư đánh giá hoạt động đầu tư vào Việt Nam có thể tăng 83% trong giai đoạn 2025-2030.
Với mạng lưới FTA kết nối tới hơn 60 thị trường khác nhau và đang đàm phán một số FTA khác, Việt Nam có mức độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện ở việc cung cấp nhiều lựa chọn kết nối với thị trường có ưu đãi thuế quan cho các doanh nghiệp hướng xuất khẩu và mở rộng cơ hội kết nối đến mạng lưới các nhà cung ứng cho nhà đầu tư nước ngoài.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ giúp mở rộng không gian cho tăng trưởng kinh tế. Theo ước lượng kinh tế của Thạc sĩ Nguyễn Anh Dương (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), khi vốn FDI thực hiện tăng 1% thì năng lực xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 0,1% trong ngắn hạn và 0,88% trong dài hạn.
Cơ hội thứ ba là Việt Nam có thể gia tăng đáng kể năng suất lao động. Việc hoàn thành mục tiêu tăng năng suất lao động trong năm 2024 sau 3 năm không đạt đã tạo nền tảng khá tích cực cho tăng năng suất lao động trong các năm tiếp theo.
Việc quyết liệt thực hiện tinh gọn bộ máy (nếu đi kèm với các giải pháp giúp người lao động rời khỏi khu vực công nhanh chóng bắt nhịp ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) sẽ giúp cải thiện đáng kể năng suất lao động ở khu vực công, đồng thời tạo thuận lợi hơn cho cải cách thủ tục hành chính. Những tác động lan tỏa tích cực này có thể sẽ giúp cải thiện năng suất lao động ở các khu vực còn lại của nền kinh tế.
Những thách thức mà kinh tế Việt Nam có thể phải đối mặt
Tuy nhiên, Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh và các cộng sự cũng cho rằng, Việt Nam có thể cũng phải đối mặt với một số vấn đề, thách thức đối với tăng trưởng kinh tế trong năm 2025.
Vấn đề thứ nhất là tăng trưởng kinh tế thế giới có thể phục hồi chậm, thậm chí suy giảm trong năm 2025. Các tổ chức quốc tế như OECD, IMF, WB… đều khá thận trọng khi dự báo triển vọng kinh tế thế giới năm 2025.
Nếu không kịp thời đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, Việt Nam sẽ gặp thách thức trong việc tận dụng động lực từ xuất khẩu và các FTA cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề thứ hai là sự phát triển nhanh chưa từng có tiền lệ của các công nghệ mới. Bên cạnh cơ hội to lớn, điều này cũng đặt ra những thách thức không nhỏ nếu Việt Nam không sớm hiện thực hóa một cách tiếp cận phù hợp.
Nếu cách tiếp cận chính sách không tạo đủ thuận lợi và kết hợp hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các công nghệ mới, hoặc đòi hỏi các dự án, doanh nghiệp phải cam kết thành công, bảo toàn vốn thay vì sẵn sàng chấp nhận rủi ro, việc tiếp cận khoa học công nghệ có thể gặp nhiều khó khăn.
Nếu cách tiếp cận chính sách không đặt phát triển vốn nhân lực ở vị trí trung tâm, không kết hợp các giải pháp điều chỉnh kỹ năng và nâng cao kỹ năng cho đội ngũ nhân lực trong ngắn hạn và trung hạn thì Việt Nam có có thể tận dụng cơ hội từ các thành tựu khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề thứ ba là thu hút FDI có chất lượng khó có thể hiệu quả và đúng hướng nếu không kịp thời cụ thể hóa tiêu chí về chất lượng của dự án, phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế.
Vấn đề thứ tư là hiện thực hóa tăng trưởng cao là một yêu cầu quan trọng để Việt Nam hướng tới các mục tiêu phát triển đầy tham vọng vào năm 2030 và 2045, song chỉ thực sự có ý nghĩa nếu không đi kèm với áp lực lạm phát cao.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới gia tăng bất định vào năm 2025, cần giữ vững dư địa của chính sách kinh tế vĩ mô, thách thức với Việt Nam là làm sao để các cải cách cơ cấu trở thành động lực chính cho tăng trưởng cao và có chất lượng.
Đề xuất chính sách thúc đẩy tăng trưởng
Để thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ hơn gắn với cải thiện chất lượng tăng trưởng, Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh và cộng sự đưa ra một số kiến nghị về cải cách nền tảng kinh tế vi mô song song với các biện pháp kinh tế vĩ mô cùng một số biện pháp khác trong năm 2025 và giai đoạn tiếp theo.
Về vi mô, Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh và cộng sự đề nghị tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0; nhận diện, ban hành khung chính sách và chuẩn bị điều kiện thể chế, hạ tầng kỹ thuật cần thiết nhằm hình thành hệ sinh thái hiện đại cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực dựa trên nền tảng AI và công nghiệp bán dẫn; rà soát, tháo gỡ các vấn đề về chính sách cạnh tranh trong kinh tế số; nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc điều tiết hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn.
Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh và cộng sự cũng đề xuất hoàn thiện khung chính sách, nâng cao năng lực thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn mạnh những nội dung về hỗ trợ doanh nghiệp trên nguyên tắc không trái cam kết quốc tế, phát huy vai trò dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trong chuỗi cung ứng…
Về giải pháp kinh tế vĩ mô, Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh và cộng sự kiến nghị nghiên cứu, xây dựng Chương trình tổng thể về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có chất lượng…
Các dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2025
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 6,6% trong năm 2025, cao hơn mức dự báo tăng trưởng của WB với hầu hết các nước khác trong khu vực (Mông Cổ là 6,5%, Philippines là 6,1%, Campuchia là 5,5%, Indonesia là 5,1%, Trung Quốc là 4,5%...).
Ở khu vực châu Á, WB dự báo có 2 nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao hơn Việt Nam trong năm 2025, đó là Bhutan được dự báo tăng trưởng 7,2% và Ấn Độ được dự báo tăng trưởng 7,2%.
Một số tổ chức khác cũng dự đoán kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá cao trong năm 2025, như Oxford Economics dự báo 6,5%, IMF dự báo 6,1%, ADB dự báo 6,6%, Ngân hàng UOB dự báo 7%...
Trong nước, Quốc hội giao chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt từ 6,5-7%, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 8% và phấn đấu đạt mức tăng trưởng hai con số trong điều kiện thuận lợi hơn.