Chuyện vãn với người Hà Nhì ở ngã ba biên giới
Tôi đã trở lại A Pa Chải, nơi được mệnh danh là 'một con gà gáy ba nước cùng nghe' sau hơn 20 năm. Ông chủ đàn trâu, bò 200 con năm xưa bảo: 'Bây giờ chỉ còn mấy chục con thôi, nuôi trâu bò nhiều mà để đấy ngắm làm gì. Tôi bán đi mua xe máy, ti vi, tủ lạnh… rồi'. Ông chủ này là một trong ba người giàu nhất A Pa Chải thời đó - những người sở hữu đàn trâu bò hơn trăm con.
A Pa Chải trước năm 2003 (xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên) là bản cực Tây trên đất liền của Việt Nam, sau đó được tách thành hai bản gồm A Pa Chải và Tá Miếu. Tá Miếu trở thành bản cực Tây. A Pa Chải được dùng đặt tên cho đồn biên phòng A Pa Chải, cửa khẩu A Pa Chải. Tuy nhiên, trong tâm thức của nhiều người, A Pa Chải vẫn là cái tên chung gợi nhớ về vùng đất ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Trung Quốc. Chuyện về vùng đất này đúng là cổ tích.
Từ đỉnh núi thiếu thốn... đến hạ san sung túc
A Pa Chải nằm cách thành phố Điện Biên Phủ hơn 200 ki lô mét về hướng Tây Bắc, với cột mốc số 0 nằm trên đỉnh núi Khoan La San cao 1.866 mét so với mực nước biển, thuộc dãy Pu Đen Đinh. Nơi này là khu vực sinh sống của người Hà Nhì. Cả tỉnh Ðiện Biên có khoảng 5.500 người Hà Nhì sống tập trung ở bốn xã Chung Chải, Sen Thượng, Leng Su Sìn và Sín Thầu của huyện Mường Nhé. Một năm của người Hà Nhì có 365 ngày chia thành 12 tháng theo ba mùa nóng, lạnh và mưa.
Ông Su Khừ Chừ ở bản Tả Kố Khừ, xã Sín Thầu kể rằng, người Hà Nhì vốn không quen sống trên đỉnh núi cao, cách xa nguồn nước, nhưng bệnh sốt rét buộc họ phải dời lên cao. Thời ấy, người dân bản chữa sốt rét bằng cách ăn giun đất, uống nước giải lợn sề… chứ chưa biết có thuốc ký ninh và sốt rét là nỗi ám ảnh đời đời kiếp kiếp của người Hà Nhì ở Sín Thầu.
Khi ấy, ông Pờ Pố Chừ ở bản Tả Lao San, cũng là người đảng viên đầu tiên ở nơi này, đã vận động bà con: “Bệnh sốt rét đáng sợ nhưng tôi đã được bộ đội hướng dẫn rồi, phải diệt con muỗi, phát quang bụi rậm, diệt con bọ gậy. Bộ đội còn cho tôi thuốc trị bệnh”. Tuy nhiên, dân bản nửa tin nửa ngờ. Lúc đó, Tả Lao San là vùng đất mát mẻ trên cao, ít muỗi nhưng lại thiếu thốn đủ bề, còn Tả Kố Khừ phía dưới gần ba con suối, đất đai màu mỡ, cá suối đầy ắp, lúa tốt bời bời, cấy một thửa nhỏ cũng đủ ăn cả năm. Thấy cái lợi, ông Pờ Pố Chừ muốn đưa cả bản xuống, nhưng mọi người vẫn e dè, sợ bệnh cũ đeo bám.
Quyết là làm, năm 1969, ông Pờ Pố Chừ đưa gia đình xuống trước, làm lúa mấy vụ đều bội thu. Ông dựng căn nhà gỗ nhìn ra sông, gió sông mát mẻ, nước sông trong lành, không có bụi rậm, vũng nước tù nên con muỗi con vắt cũng ít sinh sôi nảy nở. Đến mùa gặt năm sau, ông lại lên vận động bà con, lần này có thêm thành quả lao động là thóc lúa, gia súc, gia cầm để chứng minh. Bà con phấn khởi lắm nhưng vẫn còn e ngại. Ông Chừ đến từng nhà vận động, họ đồng ý xuống thấp nhưng lại viện cớ không có sức di chuyển. Ông cười: “Chuyện đó có khó gì!” Ngày hôm sau, ông tập hợp lực lượng thanh niên xã, lại nhờ bộ đội giúp sức. Lần đầu di chuyển được sáu hộ, đến các năm sau cả 19 hộ trong bản Tả Lao San thời đó mới kéo nhau hạ sơn hết. Cuộc sống sung túc dần.
Đến nay, bản Tả Kố Khừ có 95 hộ người Hà Nhì, cả giáo viên người dưới xuôi lên là hơn 100 hộ.
Thay cá suối bằng sinh kế bền vững
Sín Thầu là vùng đất xa xôi, khó khăn bậc nhất của cả nước. Từ huyện lỵ Mường Nhé phải mất 80 ki lô mét nữa mới đến xã. Đường đi lại được rộng rãi, thuận tiện như ngày nay cũng chỉ mới được mở từ năm 2006. Lúc chưa có đường ô tô thì đi bộ hết, hàng hóa cõng trên lưng.
Trước đây, Sín Thầu gần như bị biệt lập với tỉnh lỵ và được ví như “đại bản doanh” thuốc phiện, của đói, nghèo và lạc hậu. Nhưng hiện nay Sín Thầu tự hào có “sáu không”: không có người nghiện ma túy, không chặt phá rừng làm nương, không có người du canh du cư, không xuất cảnh trái phép, không sinh con thứ ba, không theo tà đạo, tôn giáo lạ.
“Văn minh thương nghiệp” thời trước đổi mới ở Sín Thầu đến nay vẫn còn dấu tích là một nhà kho phân phối hàng ở A Pa Chải, cách trung tâm xã 8 ki lô mét. Thời đó, muốn mua đá lửa, cao sao vàng, kim chỉ, dân phải lặn lội lên đây, đến kỳ nộp thuế cũng phải mang sản vật lên tận nơi. Việc đi lại bất tiện, nhưng các khu dân cư khác còn khó tiếp cận hơn, nên đành chấp nhận. Chỉ khi Pờ Pố Chừ lập bản vào tháng 1-1970, ông làm Phó chủ tịch, rồi Chủ tịch UBND xã Sín Thầu nhiều năm liền, những bất hợp lý này mới chấm dứt.
Ông Pờ Pố Chừ là bố của Pờ Dần Xinh - người hôm nay vừa ngồi ăn cơm uống rượu vừa khề khà kể chuyện về đất Sín Thầu cho tôi nghe say mê. Nếu Pờ Pố Chừ nổi tiếng với chuyện chuyển cả bản hạ sơn thì Pờ Dần Xinh lại vang danh với chuyện làm ruộng nước và đào ao thả cá.
Năm 1995, nghe đồn thổi, dân Tả Kố Khừ bỏ ruộng dưới thấp đi làm nương hết. Làm nương phá rừng, vất vả mà xa xôi. Ông Pờ Dần Xinh lúc này là Chủ tịch UBND xã, vận động bà con làm lúa nước nhưng không ai nghe, bởi ông Xinh còn khá trẻ. Nghĩ mình phải làm gương, thế là bao nhiêu ruộng hoang trong bản, gia đình ông bỏ tiền mua lại, cải tạo và canh tác. Mấy năm đầu, lúa nương cho năng suất cao hơn lúa nước. Bà con cười ông Xinh không thức thời, ông nín lặng. Đến vụ thứ tư, nương rẫy đã cằn cỗi, lúa không còn được tốt như trước. Trong khi đó, ông Xinh đã cải tạo đất bạc màu, lại làm kênh dẫn nước về ruộng, lúa đủ phân đủ nước nên tốt bời bời. Nhiều người từng khuyên ông bỏ ruộng nước làm ruộng nương bấy giờ lại tìm đến ông xin mướn ruộng, ông đều chia cho cả. Từ lúa ông đổi thành trâu, bò. Lúc cao điểm, gia đình Pờ Dần Xinh nuôi 200 con.
Chuyện đào ao nuôi cá của ông Xinh cũng kỳ công. Hai mươi năm trước, khi ông bắt đầu đào ao trong vườn, dân bản cười ngất, họ nói: “Suối Voi, suối Mo Phí thiếu gì cá, việc gì phải nuôi?”. Cá suối ngon thật, nhưng nhỏ, bán giá rẻ mạt. Ông Xinh nuôi cá trắm, cá chép, cá mè - loại cá to, nhiều thịt, lạ lẫm với người dân. Vụ đầu, cá không bán được vì đường sá khó khăn, nhưng bà con được ông mời ăn đều tấm tắc khen. Thấy hiệu quả, nhiều người học theo, và giờ đây mô hình VACR (vườn - ao - chuồng - rừng) đã trở thành sinh kế bền vững của người Hà Nhì ở Sín Thầu.
Ông Pờ Dần Xinh có cả pho chuyện lớn bé của cư dân đất ngã ba biên giới này. Ông luôn học hỏi và làm điều mới. Năm 1994, ông là người đầu tiên dựng nhà ngói ở cực Tây Tổ quốc. Năm 2005, ông mua chiếc xe máy Future mới tinh, dù xã chưa có đường, phải gửi xe ở bản xa và đi bộ ra lấy mỗi lần đi công tác. Mấy chục năm trước khi tôi hồ hởi về những đàn trâu, bò hàng trăm con của người Hà Nhì ở đây, ông đã bảo: “Nếu dân chưa biết biến trâu, bò thành ti vi, tủ lạnh, máy phát điện, xe cộ, cho con cái ăn học… thì chưa vui được”. Là người tiên phong cho việc “hàng hóa hóa” đàn bò, từ mấy trăm con, ông bán bớt để giữ tài sản theo cách khác. Ông tin rằng chỉ khi buôn bán, kinh tế gia đình mới vững mạnh.
Ấm no với Sín Thầu
Từ những người làm gương và tận tình giúp đỡ người khác như ông Pờ Dần Xinh, Sừng Sừng Khai, Chang Váng Sinh…, xã Sín Thầu đã có hàng trăm hộ nuôi trâu, bò và hơn 10 trang trại chăn nuôi, trồng dược liệu.
Vài năm trước, Pờ Hùng Sang, con trai ông Xinh, khoe đang chuẩn bị trồng rừng. Tôi hỏi bao nhiêu héc ta, Sang cười tít mắt: “Ít thôi, khoảng vài ngàn héc ta”. “Trời ạ! Như thế là quá lớn chứ ít gì!”. Nghe tôi nói vậy, Sang cười tít mắt bảo rằng trồng rừng để động viên bà con dân bản. Đây là dự án trồng rừng của Chính phủ giúp dân thoát nghèo, nhưng nhiều người không làm, cây giống thừa, cả nhà Sang đành nai lưng trồng. Cánh rừng này sẽ là vốn cho đời con cháu.
Pờ Hùng Sang, vui tính và sôi nổi, từng sống hơn chục năm ở Hà Nội, học nội trú, báo chí, rồi chính trị. Ông Xinh, bố Sang, là người Hà Nhì đầu tiên tốt nghiệp phổ thông. Sang là người Hà Nhì đầu tiên tốt nghiệp đại học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2009). Anh từng là Bí thư Huyện đoàn Mường Nhé, nay là Bí thư Đảng ủy xã Pá Mỳ.
Hai mươi năm trước, mấy anh lái buôn dắt ngựa thồ từ Mường Tè về Sín Thầu, đi qua bản đổi ba gói bột canh được cái đùi hoẵng nặng chục cân. Đó là “thời của muối” - khi muối hiếm, cả nhà Pờ Dần Xinh đầu năm phải gùi muối mỏ về, vừa đắng vừa cứng, ăn cả năm.
Giờ đây, từ măng, thóc đến gà, vịt, bò... đều có người lái ô tô, xe máy vào tận nơi thu mua. Muốn gì, chỉ cần gọi điện là có hàng giao đến cửa. Toàn xã giờ có 25 hộ kinh tế giỏi, thu nhập 80-100 triệu đồng/năm, tiêu biểu như gia đình ông Pờ Tùng Cấu, Lý Xuyến Phù, Sừng Sừng Khai...
“Trong xã có 10 hộ gia đình làm du lịch cộng đồng. Thời gian tới, xã sẽ chọn một đến hai bản để tập trung quy hoạch, đầu tư, gắn phát triển du lịch, nâng cao đời sống kinh tế, tinh thần của người dân với việc giữ gìn văn hóa tộc người”, bà Pờ Mỳ Lế, Bí thư Đảng ủy xã Sín Thầu, nói.