Chanh leo, chuối, dứa, dừa: Nhóm trái cây tỷ USD đang chờ bứt phá
Có lợi thế cạnh tranh, năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường, chanh leo, chuối, dứa, dừa có thể thu về chục tỷ USD/năm nếu làm tốt khâu sản xuất và xuất khẩu.
Duy trì một tiêu chuẩn chất lượng duy nhất
“Từ con số 0 cách đây 10 năm, ngành chanh leo đã tạo ra giá trị kinh tế đáng kể và có tiềm năng cán mốc 1 tỷ USD nếu quy hoạch tốt và thị trường Trung Quốc mở rộng”, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Nafoods, chia sẻ.

Nhu cầu toàn cầu đối với chanh leo cô đặc và puree khoảng 30.000 tấn mỗi loại mỗi năm. Ảnh: Minh họa
Giống chanh leo tím của Việt Nam, đặc biệt là của Nafoods, được thế giới đón nhận mạnh mẽ dưới dạng quả tươi, khác biệt với giống vàng chua ở Nam Mỹ. Châu Âu là thị trường xuất khẩu quả tươi quan trọng, ước tính khoảng 5.000-7.000 tấn mỗi năm.
Về tiềm năng thị trường, ông Hùng ước tính, nhu cầu toàn cầu đối với chanh leo cô đặc và puree khoảng 30.000 tấn mỗi loại mỗi năm, với tốc độ tăng trưởng 6 - 7% nhưng không phải là vô hạn. Tuy nhiên, thị trường Trung Quốc nếu mở cửa sẽ tạo ra nhu cầu rất lớn cho quả tươi, đặc biệt trong mùa đông khi họ không thể trồng.
Năng suất chanh leo Việt Nam vượt trội hơn gấp đôi so với Nam Mỹ (40 - 60 tấn/ha so với 15 - 20 tấn/ha), mang lại lợi thế cạnh tranh lớn về chi phí sản xuất (khoảng 20.000 đồng/kg quả) và giá xuất khẩu (60.000 - 70.000 đồng/kg). Riêng giống chanh leo ngọt của Nafoods có thể bán tại vườn với giá 80.000 - 100.000 đồng/kg và lên tới 230.000 đồng/kg tại siêu thị. Điều này cho thấy tiềm năng kinh tế rất lớn, mỗi ha chanh dây có thể mang lại doanh thu khoảng 1 tỷ đồng cho nông dân.

Unifarm kỳ vọng ngành hàng chuối Việt Nam có thể vươn lên, đạt giá trị xuất khẩu 4 tỷ USD trong thời gian tới. Ảnh minh họa
Giữa một thị trường trái cây ngày càng cạnh tranh và khắt khe về chất lượng, Unifarm, doanh nghiệp do ông Phạm Quốc Liêm làm Chủ tịch, đang kiên định theo đuổi một chiến lược đặc biệt với cây chuối: "Phát triển bằng công nghệ cao và duy trì một tiêu chuẩn chất lượng duy nhất, xuyên suốt từ giống đến thị trường".
Trong khi nhiều nhà sản xuất chuối trong nước có thể linh hoạt giữa các tiêu chuẩn như VietGAP, GlobalGAP, hoặc tiêu chuẩn riêng của từng thị trường nhập khẩu, Unifarm chọn một cách tiếp cận ngược lại: Thống nhất quy trình và chất lượng, từ khâu giống, canh tác, xử lý sau thu hoạch đến truy xuất nguồn gốc.
Năm 2024, xuất khẩu chuối mang về cho Việt Nam 378 triệu USD, tương ứng khoảng 2.400 USD/ha, ông Liêm cho hay, đây là mức thu nhập chưa tương xứng với tiềm năng. Đặt mục tiêu cao hơn, Unifarm tập trung từ khâu đầu tiên là chọn tạo và phát triển giống. Theo ông Liêm, giống chuối phải vừa cho năng suất cao, chất lượng tốt, vừa có khả năng kháng bệnh héo rũ Panama - loại bệnh nguy hiểm đang đe dọa nhiều vùng trồng chuối trên thế giới.
Không chỉ dừng ở con số vài trăm triệu USD, Unifarm kỳ vọng ngành hàng chuối Việt Nam có thể vươn lên đạt giá trị xuất khẩu 4 tỷ USD trong thời gian tới. Điều này đồng nghĩa với việc giá trị sản xuất phải đạt ít nhất 20.000 USD/ha, gấp gần 10 lần hiện nay. Đây là một mục tiêu không dễ, nhưng theo ông Liêm, hoàn toàn khả thi nếu toàn ngành cùng hướng đến sản xuất quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao và duy trì được chất lượng đồng đều.
"Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề sức khỏe người dân và môi trường cũng cần để tâm. Nếu có thể đạt được điều này, chuối Việt Nam sẽ có thêm lợi thế cạnh tranh, nhất là những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản", ông Liêm nói.
Ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, cho rằng, trong bối cảnh thị trường chuối tươi ngày càng cạnh tranh, việc phát triển sản phẩm chế biến sâu và phụ phẩm là bước đi tất yếu nếu Việt Nam muốn nâng tầm ngành chuối và tránh phụ thuộc vào một vài thị trường xuất khẩu truyền thống.
Hiện nay, phần lớn chuối Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng quả tươi, chủ yếu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước Trung Đông. Trong khi đó, các sản phẩm như chuối sấy, chuối ép, rượu chuối, bánh chuối hay bột chuối xanh, vốn có giá trị cao hơn, vẫn chỉ ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún.
Theo ông Huy, điều này một phần do chưa có chính sách thúc đẩy chuỗi chế biến chuối bài bản và thiếu các dự án đầu tư quy mô lớn. Bên cạnh đó, tiềm năng kinh tế từ phụ phẩm của cây chuối cũng rất lớn. “Nếu biết tận dụng, một cây chuối có thể cho ra 5-7 sản phẩm có giá trị sử dụng hoặc thương mại”, ông nói.
Để khai mở tiềm năng này, ông Võ Quan Huy đề xuất có chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến chuối, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, khoa học - công nghệ và thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Đồng thời, cần có chương trình nghiên cứu, chuyển giao công nghệ nhằm tận dụng tối đa phế phụ phẩm từ cây chuối, thay vì vứt bỏ gây lãng phí hoặc ô nhiễm môi trường như hiện nay.
Cần một "cuộc cách mạng công nghệ" cho 4 loại trái cây chủ lực
Tổng diện tích canh tác 4 loại trái cây chuối, chanh leo, dứa và dừa hiện đạt khoảng 420.000 ha với sản lượng trên 6,3 triệu tấn, tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu 4 loại trái cây này mới đạt con số 1,752 tỷ USD. Có năng lực cạnh tranh, sản xuất và nhu cầu thị trường tiềm năng, do đó, từ góc độ Nhà nước, hợp tác xã, người trồng… còn rất nhiều việc phải làm để đưa các mặt hàng này lên tầm tỷ đô, có thể là vào năm 2026 hoặc 2027.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu tại Diễn đàn “Giải pháp tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm trái cây có lợi thế: Chanh leo, chuối, dứa, dừa”. Ảnh: NNVN
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho rằng, cần một "cuộc cách mạng công nghệ" cho 4 mặt hàng trái cây chủ lực này. Trong đó, các vấn đề cần chú trọng đó là giống.
Bởi theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, Nghị định số 88/2025/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 193/2025/QH15 đã tháo gỡ nhiều rào cản, mở ra cơ hội đột phá trong nghiên cứu giống mới. Đây là thời điểm các viện, trường cần tập trung cải tiến và đa dạng hóa nguồn giống, trong khi doanh nghiệp phải đẩy mạnh đầu tư, chủ động liên kết trong quá trình sản xuất giống.
Cũng theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, hiện nay, việc phân cấp cho các vùng địa phương theo Nghị định số 145/2025/NĐ‑CP đặt ra 17 nhiệm vụ cho từng xã về vùng nguyên liệu, cấp mã số vùng trồng. Đây là cơ sở quan trọng để địa phương chủ động phối hợp với doanh nghiệp và hợp tác xã trong quản lý và phát triển vùng trồng một cách bài bản, hiệu quả.
Riêng với vùng nguyên liệu, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với hợp tác xã để xây dựng mô hình liên kết chặt chẽ từ đầu vào đến đầu ra. Đây là yếu tố then chốt không chỉ đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, truy xuất nguồn gốc mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Từ bài học mất 200 tỷ đồng sau 7 năm đầu tư vào cây dứa, khi nông dân phá hợp đồng bán ra ngoài với lý do quả to được giá hơn, Công ty CP Nafoods đã áp dụng quản lý số hóa toàn bộ 5.000 ha vùng nguyên liệu tại Tây Nguyên, ký hợp đồng giá sàn với điều khoản ràng buộc rõ ràng và hạn mức thu mua trên mỗi ha. Doanh nghiệp cũng chủ động hủy hợp đồng với những hộ vi phạm, từ đó xây dựng được mạng lưới nông dân “sống chết cùng doanh nghiệp”. Theo đại diện doanh nghiệp này, nếu không có cơ chế kiểm soát chặt, mô hình liên kết 4 nhà sẽ dễ tan vỡ khi giá nông sản biến động.