Cần có thêm chính sách khuyến khích các cặp vợ chồng sinh con

Cùng với chủ trương không xử lý kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3 trở lên của Bộ Chính trị, Bộ Y tế cũng đang dự thảo Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số theo hướng mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh.

Những chủ trương, chính sách này đã đủ để khuyến khích các gia đình sinh thêm con hay chưa? Phóng viên Báo Quân đội nhân dân phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội (Đại học Kinh tế Quốc dân) xung quanh vấn đề này.

Phóng viên (PV):Thưa Giáo sư, ông có thể chia sẻ về chủ trương không kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3 trở lên của Bộ Chính trị?

Giáo sư Nguyễn Đình Cử: Chính sách dân số là chính sách lớn, được đề cập trong tất cả văn kiện từ Đại hội IV cho đến Đại hội XIII của Đảng. Ngoài ra, đến nay, Trung ương Đảng đã có 2 nghị quyết chuyên đề về vấn đề dân số, đó là Nghị quyết số 04/NQ-HNTW ngày 14-1-1993 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.

 Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Mường Lèo, xã Mường Lèo, huyện Sốp Cộp (Sơn La) chơi thể thao trong giờ ra chơi. Ảnh: LINH AN

Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Mường Lèo, xã Mường Lèo, huyện Sốp Cộp (Sơn La) chơi thể thao trong giờ ra chơi. Ảnh: LINH AN

Trước đây mức sinh cao nên mục tiêu chính sách dân số chủ yếu là giảm sinh, thực hiện mô hình “gia đình 2 con”. Vì vậy, Đảng ta yêu cầu đảng viên gương mẫu chấp hành chủ trương lớn này và kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số là dễ hiểu. Sau hàng chục năm kiên trì và đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình, hiện nay, mức sinh của nước ta đã giảm một cách vững chắc và duy trì ở mức thấp. Khoảng 20 năm nay (2005-2024), bình quân mỗi phụ nữ sinh khoảng 2 con; trong đó có tới 15 năm mức sinh giảm sâu xuống dưới mức thay thế (2,1 con/phụ nữ), không đủ tái sản xuất giản đơn dân số. Đặc biệt, khu vực thành thị và toàn bộ vùng Nam Bộ có mức sinh rất thấp.

Nhiều nước phát triển, mức sinh thấp kéo dài, mỗi cặp vợ chồng sinh không đủ 2 con nên đã suy giảm dân số, thiếu lao động trầm trọng và trở thành quốc gia có dân số siêu già, gây nhiều hệ lụy. Ở phạm vi gia đình, xuất hiện “hội chứng 4-2-1”. Đó là 4 ông bà nội, ngoại, 2 bố mẹ và 1 đứa con. Với mô hình này, đứa con khi còn nhỏ được 6 người chăm sóc (4 ông bà nội, ngoại, 2 bố mẹ) nhưng lớn lên lại phải chăm sóc 6 người cao tuổi. Tình huống này không chỉ bất lợi đối với sự trưởng thành của đứa con mà còn đối với cả chất lượng cuộc sống của gia đình.

Từ thực tế mức sinh thấp, có xu hướng giảm sâu, trong bối cảnh kinh tế-xã hội phát triển nhanh ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm trên thế giới, tôi cho rằng, chủ trương không xử lý kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3 trở lên của Bộ Chính trị là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở vững chắc cả về lý luận và thực tiễn.

PV: Theo ông thì đâu là nguyên nhân dẫn đến xu hướng sinh ít con, thậm chí là ngại sinh con hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Cử: Xu hướng này có rất nhiều nguyên nhân, tôi chỉ xin nêu một số nguyên nhân chính. Theo tôi, mô hình sinh sản ở Việt Nam đang chuyển từ số lượng sang chất lượng, nghĩa là từ sinh nhiều con, chất lượng thấp sang ít con, chất lượng cao. Để có những đứa con có sức khỏe, có giáo dục tốt, tất nhiên chi phí phải lớn. Khảo sát về mức sinh thấp ở Nam Bộ năm 2019 cho thấy: Hơn 90% cha mẹ đánh giá chi phí nuôi, dạy con tốn kém hoặc rất tốn kém. Trong khi đó, năm 2024, thu nhập bình quân của lao động mới đạt 7,7 triệu đồng/tháng. Trong bối cảnh này, sinh đủ 2 con đối với nhiều người là một thách thức lớn.

Ngày nay, các cặp vợ chồng nói chung và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nói riêng có học vấn cao, hầu hết tham gia lực lượng lao động, ít thời gian, điều kiện dành cho chăm sóc con cái. Họ có nhiều khát vọng thăng tiến về học vấn, tay nghề, vị trí xã hội, tăng thu nhập... và cả vui chơi, giải trí, tự do, tự quyết, nâng cao chất lượng cuộc sống. Để đạt được khát vọng thăng tiến và nhu cầu nói trên, ít con là một giải pháp, một điều kiện. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến xu hướng sinh ít con, thậm chí ngại sinh con.

PV: Theo Giáo sư, để khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con trở lên thì Đảng, Nhà nước ta cần có thêm những chính sách gì?

Giáo sư Nguyễn Đình Cử: Những nguyên nhân sinh ít con, thậm chí ngại sinh con nêu trên đã gợi ý cho chúng ta các giải pháp lớn. Trước hết là thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại văn bản thông báo ngày 17-2-2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về việc sơ kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới và sửa đổi các quy định của Đảng, Nhà nước liên quan đến chính sách dân số; khẩn trương rà soát, sửa đổi các văn bản chính sách, pháp luật có quy định về số con và xử lý kỷ luật trường hợp sinh con thứ 3 trở lên, tức là trước hết phải mở đường về chính sách.

Hai là giảm nhẹ chi phí nuôi, dạy con cho các gia đình nuôi con nhỏ. Đứa trẻ lớn lên không chỉ mang lại lợi ích, hạnh phúc cho gia đình mà còn trở thành chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc, lao động cho doanh nghiệp, xây dựng đất nước. Vì vậy, việc Nhà nước, cộng đồng có trách nhiệm "chia sẻ" chi phí nuôi, dạy con không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn hợp lý xét trên phương diện chi phí và lợi ích.

Có nhiều hình thức chia sẻ chi phí này, như: Trợ cấp sinh con; bảo hiểm y tế cho trẻ em; miễn học phí từ bậc mầm non đến hết bậc THPT; miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân; miễn/giảm đóng góp trong cộng đồng dân cư; chính sách hỗ trợ về nhà ở... Ba là phát triển hệ thống dịch vụ gia đình, trẻ em, như: Hệ thống nhà trẻ, giáo dục, chế biến thức ăn, vui chơi, giải trí... Bốn là phát triển kỹ thuật điều trị vô sinh, hiếm muộn và hỗ trợ kinh phí cho các cặp vợ chồng điều trị vô sinh, hiếm muộn.

PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

ĐỨC TUẤN (thực hiện)

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/can-co-them-chinh-sach-khuyen-khich-cac-cap-vo-chong-sinh-con-820309
Zalo