Cá nhân nợ thuế 10 triệu đồng sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết khoản 9 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán; Luật kế toán; Luật kiểm toán độc lập, Luật ngân sách nhà nước; Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật quản lý thuế; Luật thuế thu nhập cá nhân; Luật dự trữ quốc gia; Luật xử lý vi phạm hành chính.
Tại dự thảo này, Bộ Tài chính đề xuất áp dụng ngưỡng nợ và thời gian nợ đối với các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh. Cụ thể, cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh có số tiền thuế nợ quá hạn trên 120 ngày từ 10 triệu đồng trở lên.
Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế là doanh nghiệp (DN), hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế có số tiền thuế nợ quá hạn trên 120 ngày từ 100 triệu đồng trở lên.
Về quy định thông báo việc tạm hoãn xuất cảnh. Cơ quan quản lý thuế thông báo cho người nộp thuế. Trường hợp không gửi được thông báo bằng phương thức điện tử thì cơ quan quản lý thuế thông báo trên trang thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế.
Sau 30 ngày kể từ ngày thông báo cho người nộp thuế về việc sẽ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh bằng phương thức điện tử hoặc thông báo trên trang thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế mà người nộp thuế chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế ban hành văn bản về việc tạm hoãn xuất cảnh gửi cơ quan quản lý xuất nhập cảnh để thực hiện tạm hoãn xuất cảnh.
Lý giải về các đề xuất trên, Bộ Tài chính cho biết, thực hiện quy định tại Điều 66 Luật Quản lý thuế, cơ quan thuế đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai thực hiện biện pháp hoãn xuất cảnh.
Đặc biệt từ cuối năm 2023, cơ quan quản lý thuế đã đẩy mạnh triển khai biện pháp này với các trường hợp không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký trong khi vẫn còn nợ thuế. Việc triển khai mang lại hiệu quả tích cực đối với công tác thu hồi nợ đọng thuế, đặc biệt đối với người nộp thuế có nợ chây ỳ, người nộp thuế không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký. Nhiều cá nhân biết được thông tin qua các phương tiện truyền thông đã tự giác đi nộp thuế nợ từ nhiều năm nay. Doanh nghiệp có khả năng thu xếp được khoản thuế nợ đã hoàn thành nghĩa vụ thuế để được gỡ bỏ tạm hoãn xuất cảnh.
Cũng theo Bộ Tài chính, khi triển khai trên cả nước, cơ quan quản lý thuế nhận được nhiều phản ánh từ người nộp thuế về việc bất ngờ khi nhận được thông báo tạm hoãn xuất cảnh, tạm hoãn xuất cảnh đối với người nộp thuế có số tiền thuế nợ nhỏ. Mặc dù thông báo nợ được gửi hàng tháng tới người nộp thuế có tiền thuế nợ, nhưng vì lý do nào đó (thay đổi địa chỉ nhận thông báo thuế, thay đổi thông tin liên lạc điện tử mà không báo lại cơ quan quản lý thuế...) người nộp thuế không nhận được thông tin.
Theo khảo sát của Bộ Tài chính, nếu chọn ngưỡng nợ đối với cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh từ 10 triệu đồng trở lên; DN từ 100 triệu đồng trở lên thì có khoảng 380.000 cá nhân thuộc trường hợp tạm hoãn xuất cảnh.
Nếu chọn ngưỡng nợ đối với cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh từ 50 triệu đồng trở lên; doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên thì có khoảng 81.000 cá nhân thuộc trường hợp tạm hoãn xuất cảnh.
Nếu chọn ngưỡng nợ đối với cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh từ 100 triệu đồng trở lên; doanh nghiệp từ 1 tỷ đồng trở lên thì có khoảng 40.000 cá nhân thuộc trường hợp tạm hoãn xuất cảnh.
Vì vậy, Bộ Tài chính cho rằng, phương án đưa ra dựa vào số liệu thống kê trên hệ thống ứng dụng quản lý thuế, căn cứ vào nguồn lực của cơ quan quản lý thuế, vừa tránh gây tác động lớn đến môi trường kinh doanh, hỗ trợ người nộp thuế, nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước, vừa đảm bảo công tác thu ngân sách nhà nước, công tác quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế.
Cũng theo Bộ Tài chính, việc lựa chọn thời gian nợ trên 120 ngày đồng thời để đảm bảo công tác thu hồi nợ đọng thuế, tăng tính tuân thủ của người nộp thuế, tránh nợ đọng dây dưa kéo dài khó thu hồi nợ. Bên cạnh đó, nhóm nợ có thời gian nợ từ 120 ngày trở lên cũng đã được phân loại thành nhóm nợ theo dõi riêng và đảm bảo đáp ứng trên ứng dụng quản lý thuế để cơ quan thuế có thể triển khai thực hiện ngay khi Nghị định ban hành.