Bữa tiệc đêm Mùng một Tết
Sau bầu cử (6/01/1946), thực dân Pháp tái chiếm lại Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh Nam Bộ, chiến sự ngày càng diễn ra khốc liệt. Các cơ quan đoàn thể quân khu IX được lệnh di tản vào sâu vùng căn cứ cách mạng để bảo toàn lực lượng cho cuộc trường kỳ kháng chiến. Và cũng nhằm đảm bảo thắng lợi cho cuộc di tản, lực lượng vũ trang lập những tuyến phòng thủ, vừa đánh địch vừa rút lui dần về căn cứ.
Đoàn tản cư Trà Vinh chúng tôi đi theo đường biển đến Cà Mau bằng con thuyền “vượt biển” khá to của bà con làm nghề đánh bắt thủy sản xa bờ, thời khó khăn được đi trên con thuyền “vượt biển” “bề thế” như vậy kể ra đoàn Trà Vinh cũng oách lắm. Chỗ đoàn thuyền chúng tôi tập kết còn cách thị xã Cà Mau khoảng hơn 3 giờ đường thủy, tính theo đường chim bay thì khoảng cách không đáng kể. Trên bờ người qua kẻ lại tấp nập, dưới sông ghe xuồng chen chúc nhau đổ về điểm tập kết đông vui náo nhiệt.
Hôm đó là chiều mùng một Tết Bính Tuất (1946), đất trời đang xuân, nắng vàng ươm mật, trời trong mây trắng, ngọn gió mượt mềm mang phong vị Tết lả lướt trên cành cây ngọn cỏ, giây phút thật yên bình làm người ta tạm quên đi cái róng riết của thời ly loạn. Bỗng chốc không khí yên bình vỡ vụn bởi tiếng người í ới xôn xao, tiếng bước chân người rậm rịch, thuyền ghe chao đảo, mặt sông dậy sóng, huyên náo cả một góc trời, nhiều người còn chưa kịp hiểu ra cớ sự, cứ theo quán tính mà bươn lên bờ. Giây sau mọi người mới rõ sự tình, đó là tiếng la báo hiệu có máy bay địch.
Tôi cũng chộn rộn bước nhanh về chiếc đòn dài, cái công cụ dùng làm cầu nối giữa ghe với đất liền, chiếc đòn ước chừng dài hơn 10m, bề rộng đâu chừng hơn gang tay, một đầu được bắt từ mũi ghe, còn một đầu được bắc trên bờ, chiếc đòn dài mong manh cứ tha hồ chông chênh nhún nhẩy trên mặt nước nếu có người dám chạm vào nó. Mỗi lần lên xuống, người đi phải lên “giây cót tinh thần” và rèn cho mình một kỹ năng xiếc nghệ thuật một cách triệt để, bởi vì mỗi bước đi trên chiếc đòn dài như sợi chỉ treo lửng lơ giữa trời nước, chỉ cần xê xích một chút thì cái chuyện lộn cổ xuống sông là chuyện không có gì lạ đối với người “kỹ năng” yếu kém.
Nói khó là khó đối với những người a-ma-tơ như chúng tôi, đối với những người thương hồ, chuyên sống trên sông nước, thì đó mới thật sự là những bước đi điêu luyện, lên xuống khuân vác hàng hóa cứ nhẹ nhàng như không. Còn riêng tôi, đi từ khoảng cách dưới ghe lên bờ đó là một thử thách gay cấn không có hồi kết. Đứng trước hiểm nguy “sống - chết” buộc tôi phải cố gắng hết mức củng cố tinh thần để làm xiếc, may thay lúc này anh Sơn Ngọc Minh người Khơmer, nhân viên ban tuyên truyền tỉnh Trà Vinh đang lướt qua ngang mặt tôi, không bỏ lỡ dịp may, tôi vội vàng túm lấy áo anh, nương theo đó mà làm “xiếc”.
Chúng tôi đi được hơn nửa chiếc đòn dài thì nghe có tiếng máy bay oanh tạc, anh Sơn Ngọc Minh vụt bỏ chạy, tôi cũng vụt chạy theo anh, không biết bằng cách nào chúng tôi lên được bờ một cách trơn tru nhanh chóng. Niềm vui lên được bờ át cả nỗi sợ máy bay oanh tạc. Sau nghĩ lại, tôi không biết mình chạy lên bờ cách nào mà thần kỳ đến vậy, quả đây là một đại thành công vượt bậc. Từ lúc qua Cà Mau đến giờ, mỗi lần tôi lên xuống trên chiếc đòn dài thì quá ư khốn khổ, lúc thì nhờ người này lúc, thì nhờ người kia dìu níu, nhưng không ít lần tôi cho đồng bạn tắm sông dẫu trời đông tháng giá.
Chúng tôi vừa chạy khỏi thuyền ước chừng chưa được 10 mét, bên ven đường có bụi cây mọc trơ trọi một mình, cao không quá thắt lưng, nghe tiếng đạn nổ dòn, anh Minh hơi hoảng ngồi thụp xuống, chui đầu vô núp dưới bụi cây, và cứ thế anh xoay vòng quanh gốc cho tới tàn cuộc. Còn tôi thì cũng không hơn gì anh Minh, bèn ngồi thụp xuống, níu vạt áo sau của anh Minh che đạn, và cũng cứ thế xoay theo anh. Rất may, hai chiếc Avion de chasse chỉ bắn vài loạt đạn rồi bỏ đi, không gây tổn thất ngoài mấy cành cây ngọn cỏ bị đạn xước qua.
Chờ cho thật yên, mọi người mới lục tục kéo nhau ra khỏi chỗ ẩn nấp. Anh Minh và tôi cũng đứng dậy, nhìn lại chỗ ẩn nấp khi nãy, mới biết đó là bụi ớt hiểm đang thời sung sức, giờ thì hỡi ơi, hoa lá cành xơ xác tả tơi. Và hậu quả tai hại nhất mà tôi gây nên sau cuộc tránh phi pháo, là phân nửa vạt áo sau của anh Minh tơi tả không thua gì bụi ớt. Anh Minh phát hiện vạt áo sau mình bị rách, anh hét to: “Chị đền áo cho tôi” (năm 1945 vừa qua, đó là một năm đói kém kinh khủng, lịch sử để lại năm 45, miền Bắc Việt Nam có gần hai triệu người chết đói. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, quân dân ta trong cảnh thiếu thốn mọi bề, súng đạn thuốc men vải vóc…
Cụ thể trong đoàn di tản chúng tôi không một ai có quá hai bộ áo quần lành lặn, đó cũng là vật “bất ly thân”). Tôi biết mình vô tình phạm một lỗi lớn mà lúc này đây không có cách nào khắc phục được, đành đánh liều gân cổ cãi bướng: “Anh bắt thường bụi ớt cho người ta đi, rồi tôi bắt đền cái áo cho anh”... Câu chuyện dở khóc dở cười giữa tôi và anh Sơn Ngọc Minh còn đang lưng chừng, bỗng có tiếng ai đó la to: “Tây vô. Tây vô”. Mọi người tá hỏa, mạnh ai nấy tìm đường chạy, anh Minh cũng nhanh chân lẫn vào đám đông rồi mất hút trong dòng người đang hối hả chạy giặc. Kể từ đó tôi không bao giờ còn gặp anh Minh nữa nhưng kỷ niệm về chiếc áo rách vẫn luôn còn hiện hữu trong tôi.
Mặt trời đã xuống dưới rặng cây, vài tia nắng cuối ngày không đủ xua đi cái lạnh tàn đông. Không biết lúc này là mấy giờ, Dù mệt bã người, tôi cũng cố hết sức bám theo đoàn chạy giặc, nhưng cuối cùng cũng bị rớt lại, một mình lê bước nặng nhọc trên con đường không biết trước điểm dừng phía sau lưng là giặc đuổi. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa mệt, trong người không còn chút sức lực nào, cũng bởi vì mấy ngày qua bị cơn sốt rét quật ngã, vừa mới cắt cơn chiều nay thì lại rơi vào tình cảnh gian nan này, tính giờ kể cũng có hơn 100 giờ không gì bỏ bụng, mặc cho tiếng “kèn đồng” trong bụng tha hồ sôi nổi réo rắc “bản trường ca đói.. đói.. đói”...
Trời đã tối hẳn, tôi không còn đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Rất may, tôi bắt gặp căn chòi bốn bề trống trơn, có lẽ chủ nhân căn chòi đã theo đoàn người di tản, bỏ nó không biết từ bao giờ. Không kịp nghĩ nhiều, tôi trườn xuống nền đất ngủ vùi. Có lẽ giờ đã nửa đêm, tôi tỉnh dậy, cổ họng khô rát, tôi mò tìm hộp quẹt nhóm lửa, căn chòi sáng bừng, đằng góc chòi có một cái khạp bể miệng, may còn sót lại chút nước, tôi vốc nước thấm giọng, cơn khát cháy cổ đã dần được dẹp yên. Thừa thắng xông lên, tôi ngó quanh quất sục tìm xem có gì khả dĩ cho vào bụng. Và trời ạ, ông trời không phụ lòng người, tôi phát hiện ở trên đầu cây cột, gần khạp nước có treo lủng lẳng nửa đòn bánh tét cỡ bằng cổ tay, không chậm trễ cho dù một tích tắc, tôi bay đến, trịnh trọng gỡ nó xuống, đó là nửa đòn bánh tét nhân chuối, tôi phấn khích đưa lên mũi ngửi nghe phảng phất cái mùi thức ăn đã quá hạn dùng, kệ không vấn đề, dàn “kèn đồng” trong bụng bắt đầu sục sôi réo rắc.
Dù vậy tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: nửa đòn bánh tét sao lại xuất hiện ở đây, chủ chòi bỏ quên hay có dụng ý để lại cho người lỡ độ đường như tôi? Giữa thời đói kém, sự có mặt nửa đòn bành tét ở chỗ hoang vu có phải là điều xa xỉ? Hay là tấm lòng Bồ tát? Sự thắc mắc không có lời giải đáp không át nổi tiếng “kèn đồng” trong bụng tôi đang lúc cao trào.
Tôi thong thả cởi sợi dây buộc bánh tét ra hai khoanh, phần còn lại định để ngày mai mặc dù cái mùi quá hạn dùng vẫn phảng phất ngày một rõ nét hơn. Vừa lúc tôi cầm miếng bánh chưa kịp cho vào miệng thì chợt nghe có tiếng người nói: “chị gì ơi, tôi đói bụng quá, chị cho tôi ăn với”. Tôi giật thót người, ngẩng mặt lên nhìn người đàn ông quần áo lỗ chỗ miếng vá, dáng người tầm thước, đang đứng trước mặt mình, với đôi mắt sáng, trên tay còn đang cầm khúc tầm vông đầu vạt nhọn, tôi hỏi: “Anh là ai, làm gì ở đây vậy?” Người đàn ông điềm tĩnh trả lời: “Tôi tên Út, canh gác thằng Tây ở chốt đầu Vàm”. Tôi xởi lởi mời khách: “Anh ngồi xuống đây ta cùng ăn, có điều bánh đã hơi nặng mùi”. Người đàn ông vui vẻ trả lời: “Được chị cho ăn là quí lắm rồi”. Tôi hào phóng tách luôn phần bánh để dành ngày mai ra đãi khách.
Hai người xa lạ với nửa đòn bánh tét quá hạn dùng, thành bữa tiệc nhớ đời đêm mùng một tết năm Bính Tuất (1946).
(Theo lời kể của bà Hồng Châu - vợ cố Thi sĩ Nguyễn Bính)