Bộ Công Thương: Giá điện năng lượng tái tạo chưa hấp dẫn, quy trình thủ tục đầu tư phức tạp

Ông Nguyễn Hoàng Long, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết: Ngay sau khi Quy hoạch điện VIII được ban hành, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều kế hoạch thực hiện, tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn đối diện nhiều khó khăn.

Quá trình triển khai Quy hoạch điện VIII đối diện nhiều khó khăn

Ngày 17/2, Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo “Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII) và báo cáo đánh giá môi trường chiến lược”.

Tại Hội thảo, ông Nguyễn Hoàng Long, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết: Ngay sau khi Quy hoạch điện VIII được ban hành, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều kế hoạch thực hiện, tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn đối diện nhiều khó khăn.

 Ông Nguyễn Hoàng Long, Thứ trưởng Bộ Công Thương. (Ảnh: CT)

Ông Nguyễn Hoàng Long, Thứ trưởng Bộ Công Thương. (Ảnh: CT)

Nhiều dự án quan trọng đang chậm tiến độ, đặc biệt là nguồn nhiệt điện khí LNG, khi chỉ có 3/13 dự án đang triển khai đúng kế hoạch.

Các dự án tuabin khí nội địa như Báo Vàng và Cá Voi Xanh gặp thách thức do chưa xác định rõ trữ lượng và tiến độ khai thác. Nhiều dự án năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời gặp rào cản do giá điện chưa đủ hấp dẫn và quy trình thủ tục đầu tư còn phức tạp.

Bên cạnh đó, các dự án điện khí nhập khẩu yêu cầu vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, thời gian chuẩn bị và xây dựng kéo dài.

Ngoài ra, tình hình trong nước và quốc tế cũng có nhiều biến động tác động đến nhu cầu tiêu thụ điện và định hướng phát triển nguồn điện.

“Các yếu tố địa chính trị như xung đột Nga - Ukraine, căng thẳng tại Trung Đông và các biện pháp trừng phạt kinh tế cũng tác động mạnh đến giá nhiên liệu nhập khẩu và dòng vốn đầu tư FDI vào ngành điện”, Thứ trưởng cho biết.

Ngược lại, sự phát triển của công nghệ lưu trữ năng lượng với chi phí ngày càng giảm tạo điều kiện thuận lợi để tích hợp nhiều hơn nguồn điện gió, điện mặt trời vào hệ thống.

Trước những thách thức này, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan và Viện Năng lượng xây dựng Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII.

“Với mong muốn xây dựng được Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII có tính khả thi trong thực tiễn, các ý kiến góp ý của các chuyên gia có mặt ngày hôm nay hết sức có giá trị. Bộ Công Thương sẽ tiếp thu, ghi nhận những ý kiến xác đáng để chỉnh sửa và hoàn thiện trong thời gian tới”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

4 kịch bản nhu cầu điện đến năm 2030

TS. Nguyễn Ngọc Hưng, Trưởng phòng Kinh tế năng lượng, Viện Năng Lượng, Bộ Công Thương cho biết, giai đoạn 2016-2024, sản lượng điện thương phẩm (ĐTP) toàn quốc tăng trưởng gấp 1,7 lần từ khoảng 158 tỷ kWh lên khoảng 276 tỷ kWh với tốc độ bình quân khoảng 7,2%/năm.

Theo đó, tốc độ tăng trưởng 2021-2024 đạt khoảng 7,1%/năm, thấp hơn so với giai đoạn 2016-2020 khoảng 8%/năm.

TS Nguyễn Ngọc Hưng cũng đưa ra 4 kịch bản nhu cầu điện cụ thể: Kịch bản thấp, Kịch bản cơ sở, Kịch bản cao và Kịch bản cao đặc biệt.

Đáng chú ý với kết quả dự báo của Kịch bản cao đặc biệt chỉ ra tốc độ tăng ĐTP: Từ năm 2026-2030: 12,8%/năm; năm 2031-2040: 8,6%/năm; năm 2041- 2050: 2,8% năm.

Theo đó, chênh lệch với dự báo Kịch bản cơ sở Quy hoạch điện VIII: Năm 2030: ĐTP trên 56 tỷ kWh, Pmax trên 10,0 GW; năm 2050: ĐTP trên 430 tỷ kWh, Pmax trên 71,5 GW. Cường độ điện năm 2030: 51,0 kWh/triệu đồng; năm 2050: 19,1 kWh/triệu đồng (mức giảm 4,8%/năm)

 TS. Nguyễn Ngọc Hưng, Trưởng phòng Kinh tế năng lượng, Viện Năng Lượng, Bộ Công Thương. (Ảnh: ST)

TS. Nguyễn Ngọc Hưng, Trưởng phòng Kinh tế năng lượng, Viện Năng Lượng, Bộ Công Thương. (Ảnh: ST)

“Kịch bản này phản ánh nhu cầu điện trong trường hợp nền kinh tế phát triển tăng tốc trong giai đoạn 2026-2030 và tiếp tục duy trì tăng trưởng cao “hai con số” trong thời gian dài. Kịch bản cũng đảm bảo dự phòng cho phát triển điện lực trong dài hạn”, TS Nguyễn Ngọc Hưng phân tích.

Góp ý về điều chỉnh Quy hoạch Điện VIII, ông Nguyễn Văn Dương, nghiên cứu viên Phòng Phát triển Hệ thống Điện (Viện Năng lượng), đại diện nhóm nghiên cứu trình bày các nội dung quan trọng liên quan đến đánh giá hiện trạng hệ thống điện, rà soát thông số đầu vào và phương pháp điều chỉnh quy hoạch.

Theo ông Dương, quá trình điều chỉnh quy hoạch tập trung vào 3 bước chính: Rà soát và cập nhật cơ sở pháp lý, đánh giá thực tiễn vận hành hệ thống điện, cùng với dự báo tăng trưởng kinh tế - xã hội và nhu cầu điện.

Việc tối ưu hóa hệ thống điện được thực hiện qua ba giai đoạn: xác định cơ cấu nguồn điện tối ưu, kiểm tra độ tin cậy cung cấp điện và đánh giá vận hành theo từng giờ để đảm bảo sự phù hợp với bối cảnh mới, khi tỷ trọng năng lượng tái tạo ngày càng gia tăng.

Một trong những vấn đề trọng tâm là cập nhật chi tiết tiềm năng năng lượng tái tạo tại từng địa phương nhằm khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia. Đồng thời, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết của các phương án dự phòng cho điện gió và điện mặt trời, nhằm đối phó với sự bất ổn định của các nguồn năng lượng này.

Thực tế vận hành hệ thống điện năm 2023 cho thấy, dù công suất lắp đặt cao hơn nhu cầu khoảng 1,5 lần, miền Bắc vẫn xảy ra tình trạng thiếu điện cục bộ.

Trong tương lai, khi tỷ trọng điện gió và điện mặt trời tăng lên 60-70% tổng công suất, việc bổ sung dự phòng sẽ trở nên cấp thiết để đảm bảo an ninh năng lượng.

Đánh giá của nhóm nghiên cứu cũng cho thấy, cơ cấu nguồn điện Việt Nam đã có sự chuyển dịch đáng kể. Trước năm 2010, hệ thống điện phụ thuộc vào nhiệt điện than, thủy điện và tuabin khí.

Đến giai đoạn 2011-2019, điện than tiếp tục được mở rộng. Hiện tại, với định hướng không phát triển thêm nhiệt điện than mới và thủy điện gần như đã khai thác hết tiềm năng, cơ cấu nguồn điện đang dần chuyển sang năng lượng tái tạo, với tua-bin khí đóng vai trò trung gian nhờ phát thải thấp và khả năng vận hành linh hoạt.

Thống kê cho thấy, năm 2024, tổng công suất hệ thống điện đạt khoảng 80 GW, sản lượng điện vượt 300 tỷ kWh. Tuy nhiên, một số nguồn điện quan trọng như điện gió ngoài khơi, thủy điện tích năng mới chỉ đạt 19-62% kế hoạch đề ra, làm giảm khả năng dự phòng trong ngắn hạn và đặt ra nhiều thách thức.

Nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, các kịch bản phát triển điện năng của Việt Nam tập trung vào hai phương án chính: tận dụng đất chưa sử dụng và chuyển đổi một phần đất rừng sản xuất để phát triển điện mặt trời. Theo đó, tổng tiềm năng điện mặt trời theo kịch bản cơ sở đạt khoảng 295.000 MW, trong khi kịch bản cao ước tính lên tới 576.000 MW.

Dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero), với năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng chủ đạo. Để hiện thực hóa mục tiêu này, hệ thống truyền tải cần được mở rộng, đồng thời áp dụng công nghệ lưu trữ năng lượng và phát triển nguồn điện linh hoạt nhằm duy trì ổn định hệ thống điện.

Việt Vũ

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/bo-cong-thuong-gia-dien-nang-luong-tai-tao-chua-hap-dan-quy-trinh-thu-tuc-dau-tu-phuc-tap-post334895.html
Zalo