Bia mộ cung tần Chiêu Dung - vợ Chúa Trịnh Kiểm: Chứng tích hơn 400 năm tuổi cần được bảo tồn

Nằm lặng lẽ ở cánh đồng xã Thuận Minh, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, hai tấm bia đá cổ đã nằm im suốt nhiều năm, gần như chìm khuất giữa bao thăng trầm của lịch sử và đời sống hiện đại. Tấm bia ấy không phải của ai xa lạ, mà là của bà cung tần Chiêu Dung, vợ của Chúa Trịnh Kiểm - một nhân vật lịch sử có vai trò đặc biệt trong buổi đầu trung hưng nhà Lê.

Hình ảnh tấm bia tại cánh đồng

Hình ảnh tấm bia tại cánh đồng

Đây không đơn thuần là bia mộ mà còn là những “tài liệu sống” chứa đựng giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật sâu sắc, cần được bảo tồn khẩn cấp trước nguy cơ bị hủy hoại bởi thời gian và sự lãng quên.

Bia mộ bị lãng quên...

Không đình đài, không mái che, không bảng giới thiệu, hai tấm bia mộ cung tần Chiêu Dung như một “người kể chuyện” bị bỏ quên giữa lòng đất, vẫn kiên cường lưu giữ một phần lịch sử vàng son của dân tộc suốt hơn 400 năm qua.

Sự lãng quên ấy không chỉ là một thực tế đáng buồn mà còn phản ánh mối liên hệ lỏng lẻo giữa hiện tại và quá khứ. Đang nói, tấm bia không đơn thuần là dấu tích của một ngôi mộ mà là "bản thảo bằng đá" chạm khắc nên câu chuyện về một người phụ nữ từng sống trong hậu cung phủ Chúa - nơi được xem là trung tâm quyền lực và âm thầm góp phần định hình cục diện lịch sử.

Theo kết quả kiểm tra thực tế ngày 19/9/2023 của Trung tâm Nghiên cứu lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa phối hợp cùng phòng Văn hóa huyện Thọ Xuân, UBND xã Thuận Minh, tấm bia này nằm tại thửa ruộng số 247/303.4 thuộc cánh đồng Mả Sắt, thôn 1, làng Yên Lược, xã Thuận Minh. Bia đá đã bị chôn sâu dưới ruộng, chỉ còn phần trán và thân bia nhô lên, mặt bia quay xuống đất, phần thân và chân bia đã bị vùi lấp hoặc mất tích.

Được biết, tấm bia bằng đá xanh, có kích thước phần còn lại 60cmx103cm, dày khoảng 16cm, có dáng đầu vòm hay còn gọi là hình "quyển thư" phổ biến trong kiến trúc bia thời Nguyễn. Phía trên đỉnh bia là một vòng tròn lớn tượng trưng cho nhật nguyệt hoặc biểu tượng âm dương - thường thấy trong mỹ thuật Phật giáo và Nho giáo.

Ngoài ra, trán bia chạm nổi hình hạc chầu hoa sen, trang trí kiểu cung đình với hoa văn cúc hóa và mây chầu mặt nhật tượng trưng cho sự thanh cao và bất tử. Đây là phong cách tạo tác bia đá mang đậm chất nghệ thuật thời hậu Lê thể hiện sự trau chuốt và trang trọng dành cho một nhân vật đặc biệt trong hậu cung phủ Chúa.

Ở phần thân bia có dòng chữ Hán cổ còn đọc được rõ ràng: "Đại vương Tân miếu ký 大王新廟記", "Cung tần Chiêu Dung phi tần phụng an chi bi" (Tạm dịch: Bia ký lập cho Cung tần Chiêu Dung được ban trước Đại vương).

Bia ghi rõ thời điểm bà Chiêu Dung mất giờ Thìn, ngày 12 tháng Chạp năm Ất Mão 1615 (tức vào thời vua Lê Kính Tông, niên hiệu Hoằng Định thứ 16) kèm những dòng thể hiện lòng tiếc thương sâu sắc của con cháu.

Nội dung khắc trên bia là văn tưởng niệm cung tần Lê Thị Chiêu Dung - một tấm gương mẫu mực muôn đời tại miền quê An Lạc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Bà Chiêu Dung sinh ra trong một gia đình nề nếp, từ nhỏ đã nổi bật với phẩm hạnh cao quý. Suốt đời cần mẫn, dịu dàng, bà dốc lòng phụng dưỡng cha mẹ, hết mực thủy chung với chồng, yêu thương, chăm lo cho con cháu thành đạt, gia phong mẫu mực. Không những thế, bà còn luôn lo toan cho việc làng, việc nước góp sức giúp đỡ dân nghèo, chăm sóc người bệnh, dốc lòng vì nghĩa lớn. Khi đất nước lâm nguy, bà không quản nhọc nhằn, hỗ trợ quân lương, tiếp tế cho binh lính, vận động nhân dân quyên góp, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, xứng danh là người phụ nữ Việt Nam kiên cường, đảm đang. Dưới mái ấm gia đình bà gây dựng, con cháu bà nhiều người thành tài, phục vụ cho đất nước, được dân làng kính trọng và mến thương. Nay, hậu thế khắc ghi công đức sâu dày của bà bằng văn bia lưu danh, để muôn đời tưởng nhớ. Tấm gương sáng ngời của bà là kim chỉ nam cho bao thế hệ sau noi theo, là biểu tượng sống động của phẩm chất phụ nữ Việt Nam - kiên trung, nhân hậu, tiết hạnh, thủy chung.

Bên cạnh tấm bia là một tượng rùa bằng đá, dù đã bị lật ngửa, mất phần đầu và chân, song với kích thước dài 150cm, rộng 46cm, hình dáng còn lại của rùa vẫn cho thấy đây là bệ đá đặt bia - một cấu trúc quen thuộc trong kiến trúc lăng mộ và đền miếu thời phong kiến. Ngoài ra, còn phát hiện một phần đế đá dài 65cm, rộng 17cm.

Rùa - trong tâm thức người Việt và văn hóa Á Đông, là linh vật biểu trưng cho sự trường tồn, trí tuệ và lòng trung nghĩa. Hình ảnh rùa đội bia không chỉ mang ý nghĩa nâng đỡ tri thức, lưu giữ sử sách muôn đời mà còn thể hiện sự kính trọng đối với người đã khuất, đặc biệt là những bậc có công với nước, với dân. Việc tấm bia mộ bà cung tần Chiêu Dung có tượng rùa đá đi kèm cho thấy bà không chỉ là một nhân vật quan trọng trong hậu cung, mà còn là người được con cháu và cộng đồng hết lòng tôn kính, ghi nhớ công đức.

Nội dung bia khắc bằng chữ hán cổ

Nội dung bia khắc bằng chữ hán cổ

... đề xuất bảo tồn khẩn cấp

Hiện tại, hai tấm bia đá này đang nằm ngoài trời, giữa khu vực đồng Quan - một vùng đất trống, ít người qua lại, không có mái che, biển giới thiệu hay bất kỳ biện pháp bảo vệ nào. Theo thời gian, phần chân bia đã có dấu hiệu bị sứt mẻ nhẹ; các dòng chữ tuy còn rõ, nhưng nếu không có biện pháp can thiệp, chỉ vài mùa mưa nắng nữa, tấm bia có thể bị xói mòn, mất nét hoặc hư hại nặng.

Đáng nói hơn, giữa cuộc sống hiện đại, tấm bia ấy đang bị phủ bụi thời gian, chìm khuất giữa đất ruộng, chẳng mấy ai biết đến. Bị lãng quên nhưng không vô nghĩa. Ngược lại, sự tồn tại âm thầm của nó như một lời nhắc nhở: nếu không biết trân trọng và gìn giữ những chứng tích nhỏ bé ấy, lịch sử rồi sẽ mất đi những mảnh ghép quan trọng, những câu chuyện làm nên bản sắc, linh hồn của một vùng đất, của một dân tộc. Nếu không có sự vào cuộc của chính quyền, giá trị tinh thần mà tấm bia mang theo sẽ dần mai một.

Nhận thấy tầm quan trọng, mới đây, phòng Văn hóa - Thông tin huyện Thọ Xuân đã có văn bản báo cáo, đề nghị UBND huyện và các cấp chức năng chỉ đạo kiểm kê, lập hồ sơ xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với tấm bia mộ đặc biệt này.

Trong công văn, đơn vị nêu rõ: Bia mộ bà Cung tần Chiêu Dung là tư liệu quý, thể hiện rõ mốc thời gian, nhân vật lịch sử và có giá trị cao về văn hóa, cần được bảo vệ theo Luật Di sản văn hóa.

Cụ thể, đơn vị kiến nghị sớm triển khai các bước kiểm kê, thẩm định, xếp hạng di tích; đồng thời thực hiện các biện pháp bảo tồn cấp thiết như di dời bia về khuôn viên quản lý, làm mái che chống thời tiết, gắn biển giới thiệu cung cấp thông tin lịch sử cho người dân và du khách. Việc bảo tồn không chỉ nhằm gìn giữ giá trị lịch sử - văn hóa đặc sắc của địa phương mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản cha ông để lại, gìn giữ một phần hồn cốt lịch sử cho thế hệ mai sau.

Với bề dày lịch sử hơn 400 năm và giá trị văn hóa đặc biệt, tấm bia không chỉ là một di vật cổ mà còn là ký ức của vùng đất Lam Sơn - nơi phát tích của nhiều nhân vật lịch sử kiệt xuất. Việc bảo tồn tấm bia mộ không chỉ là bảo vệ một hiện vật, mà còn là giữ gìn ký ức lịch sử và văn hóa dân tộc, gìn giữ một phần hồn cốt lịch sử cho thế hệ mai sau.

Nguyễn Hương

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/bia-mo-cung-tan-chieu-dung-vo-chua-trinh-kiem-chung-tich-hon-400-nam-tuoi-can-duoc-bao-ton-a28272.html
Zalo