Bị can có quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án không?
*Bạn đọc hỏi: Anh Đỗ Ng., trú Q.Hải Châu (TP Đà Nẵng) hỏi: Ngày 10/12/2024, tôi nhận được quyết định khởi tố bị can của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q.Hải Châu (TP Đà Nẵng) về tội 'Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức'. Tôi muốn hỏi, tôi có thể tự mình tiếp cận các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không? Nếu có, tôi cần phải thực hiện các thủ tục gì để yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan này đã thu thập được nhằm bảo vệ quyền lợi của mình? Tôi có được nhờ Luật sư hỗ trợ trong việc này không?
*Luật sư Trương Đức Trung (Văn phòng Luật sư Phong & Partners) trả lời:
Trong tố tụng hình sự, việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo luôn được pháp luật chú trọng. Một trong những quyền quan trọng mà pháp luật trao cho bị can, bị cáo đó là quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Quyền này không chỉ giúp bị can, bị cáo nắm được các nội dung buộc tội, có cơ sở để tự bảo vệ mình mà còn bảo đảm tính minh bạch và công bằng trong quá trình điều tra và xét xử. Tuy nhiên, việc tiếp cận chứng cứ không phải lúc nào cũng dễ dàng, bởi có những quy định và thủ tục pháp lý chặt chẽ mà bị can, bị cáo cần phải tuân thủ.
Đối với bị can, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ như sau:
“2. Bị can có quyền:
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;”
Theo đó, trong quá trình Cơ quan Cảnh sát điều tra giải quyết vụ án, bị can có quyền đọc, ghi chép các tài liệu là bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa. Thời điểm bị can có thể thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ của mình là từ khi kết thúc giai đoạn điều tra. Như vậy, vào thời điểm anh Ng. nhận được quyết định khởi tố bị can, anh Ng. vẫn chưa thể thực hiện các thủ tục yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra cho anh được tiếp cận đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến vụ án của anh. Vào thời điểm người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, anh Ng. sẽ được thông báo, giải thích về quyền được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa của anh khi anh Ng. có yêu cầu. Yêu cầu này phải được lập thành văn bản gửi đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án. Nội dung của văn bản yêu cầu phải nêu rõ các tài liệu cần đọc, ghi chép để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết.
Điều 3 Thông tư liên tịch 02/2028/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quy định về các trường hợp bị can không được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa như sau:
“2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án phải từ chối việc cho bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội đọc, ghi chép tài liệu hoặc từ chối việc cho bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội tiếp tục đọc, ghi chép tài liệu trong các trường hợp sau:
a) Các tài liệu liên quan đến bí mật nhà nước; bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân, bí mật gia đình của người tham gia tố tụng mà họ đã yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giữ bí mật theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Các thông tin, tài liệu mà người tham gia tố tụng là người tố giác, báo tin về tội phạm đã yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giữ bí mật;
b) Các quyết định, lệnh, văn bản tố tụng đã được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao cho bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;
c) Có căn cứ xác định bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội thực hiện một trong các hành vi:
- Mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, dữ liệu điện tử, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Lừa dối, đe dọa, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm: ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối; ngăn cản người bị hại tham gia tố tụng hoặc buộc người bị hại khai báo gian dối; ngăn cản người giám định, người định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định, người định giá tài sản kết luận sai với sự thật khách quan; ngăn cản người phiên dịch, người dịch thuật thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch, người dịch thuật dịch gian dối; ngăn cản đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia tố tụng.
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Đã được triệu tập mà vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho hoạt động tố tụng; Ngăn cản việc cấp, giao, nhận hoặc thông báo văn bản tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
d) Có căn cứ xác định bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội tiết lộ thông tin vụ án, bí mật Điều tra mà mình biết khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã yêu cầu giữ bí mật; sử dụng tài liệu đã được đọc, ghi chép vào Mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
đ) Khi chưa kết thúc Điều tra vụ án, vụ án đang trong giai đoạn phục hồi Điều tra, Điều tra bổ sung hoặc Điều tra lại hoặc Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử;
e) Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã ra quyết định đình chỉ Điều tra hoặc tạm đình chỉ Điều tra; đình chỉ Điều tra hoặc tạm đình chỉ Điều tra đối với bị can; đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.”
Như vậy, khi bị can có yêu cầu đọc, ghi chép tài liệu mà xét thấy bị can thuộc một trong các trường hợp được quy định ở trên thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án có trách nhiệm ra văn bản thông báo việc từ chối cho bị can đọc, ghi chép tài liệu và nêu rõ lý do.
Ngoài ra, anh Ng. cũng cần lưu ý bị can chỉ được quyền đọc, ghi chép tài liệu từ sau khi kết thúc điều tra, trong giai đoạn truy tố đến trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vào thời điểm Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, tư cách tham gia tố tụng của người phạm tội được xác định là bị cáo. Pháp luật hiện nay chưa quy định rõ về việc bị cáo được phép tiếp cận đọc, ghi chép, sao chụp các tài liệu hồ sơ liên quan đến vụ án. Do đó, để đảm bảo tối đa quyền lợi của mình, anh Ng. có thể tìm kiếm sự hỗ trợ của Luật sư để thực hiện việc tiếp cận tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
1. Người bào chữa có quyền:
l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
Mặc dù, Luật sư có thể tham gia vào giai đoạn tố tụng ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án tuy nhiên quyền tiếp cận tài liệu trong hồ sơ vụ án chỉ phát sinh sau khi kết thúc giai đoạn điều tra. Như vậy, ngay từ thời điểm này, anh Ng. có thể mời Luật sư tham gia bảo vệ cho mình trong quá trình Cơ quan Cảnh sát điều tra thực hiện việc điều tra. Khi tham gia vào giai đoạn này, Luật sư sẽ hỗ trợ cho bị can thực hiện các quyền lợi hợp pháp như: có mặt cùng bị can khi bị hỏi cung, lấy lời khai; có mặt trong các hoạt động đối chất, các hoạt động điều tra khác; được thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản…
Bên cạnh đó, ngay khi kết thúc điều tra, Luật sư sẽ có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Khác với quyền tiếp cận hồ sơ vụ án của bị can, pháp luật cho phép Luật sư được tiếp cận với hồ sơ gốc của vụ án, được sao chụp và nghiên cứu toàn bộ tài liệu, kể cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội. Trong khi đó, khi kết thúc điều tra, bị can chỉ được thực hiện quyền tiếp cận hồ sơ vụ án thông qua việc đọc và ghi chép bản sao, tài liệu được số hóa liên quan đến mình, không được phép trực tiếp sao chép, lưu trữ hoặc khai thác hồ sơ vụ án. Như vậy, pháp luật cho phép bị can được thực hiện quyền tiếp cận hồ sơ vụ án nhưng cũng đặt giới hạn nhất định cho bị can nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện đúng quy định pháp luật.
Vai trò của Luật sư trong việc tiếp cận và nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án rất quan trọng. Nếu bị can tự mình thực hiện quyền này, pháp luật chỉ đảm bảo bị can được quyền tiếp cận các thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan trực tiếp đến chính bản thân họ. Điều này khiến bị can khó có cái nhìn khách quan, toàn diện về vụ án và địa vị pháp lý của mình. Hơn nữa, với sự hạn chế về chuyên môn và kinh nghiệm, bị can sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ cũng như tận dụng tối đa quyền tiếp cận hồ sơ để tự bảo vệ mình một cách hiệu quả. Bằng kiến thức pháp lý chuyên sâu và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, khi thực hiện quyền tiếp cận, nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, Luật sư sẽ giúp bị can phân tích, đánh giá các chứng cứ một cách toàn diện và chính xác. Luật sư có thể xác định những điểm bất lợi, các sai sót trong quá trình thu thập chứng cứ, đồng thời phát hiện và khai thác những yếu tố có lợi cho việc bào chữa. Vai trò của Luật sư không chỉ dừng lại ở việc đánh giá các tài liệu, chứng cứ, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà còn là người định hướng phương án bảo vệ, bào chữa cho bị can, bị cáo, chuẩn bị các căn cứ chặt chẽ nhằm bảo vệ tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp của bị can trước cơ quan tiến hành tố tụng.
Có thể thấy, pháp luật hiện hành đặt ra một số giới hạn nhất định đối với bị can, bị cáo trong việc tiếp cận tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Những giới hạn này nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng và an toàn trong hoạt động tố tụng. Để đảm bảo tối đa quyền lợi của mình và khai thác hiệu quả các quyền mà pháp luật cho phép, anh Ng. có thể mời một Luật sư chuyên về hình sự để hỗ trợ anh trong quá trình tiếp nhận điều tra, truy tố và xét xử. Với chuyên môn và kinh nghiệm của mình, Luật sư sẽ bào chữa cũng như bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của anh trong vụ án.
Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425