Bí ẩn những ngôi thành đất cổ Bình Phước

Thành đất đắp hình tròn là loại hình di chỉ khảo cổ học được nghiên cứu phát hiện bởi nhà khảo cổ học người Pháp có tên là Louis Malleret. Qua kết quả nghiên cứu về di tích, đây là loại hình di tích độc đáo riêng của Bình Phước, loại hình cư trú cổ xưa của người tiền sử. Ngoài ra, đây cũng là một mảng văn hóa cổ đặc biệt trong dòng chảy văn hóa ở khu vực Đông Nam Á thời tiền sử, di sản văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam.

Bí ẩn những ngôi thành đất cổ Bình Phước

(Báo Bình Phước, 12-6-1999)

NGUYỄN NGUYÊN NHÃ
(Bảo tàng Bình Phước)

Tỉnh Bình Phước thuộc vùng Đông Nam bộ, đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa. Từ ngàn xưa, đất này đã có sự cư trú của người tiền sử. Các di chứng vẫn còn rải rác đó đây như: Đàn đá, Trống đồng và nhiều loại rìu đá, đồ gốm, đồ đồng… trong đó có một loại hình văn hóa tiền sử độc đáo không chỉ riêng tỉnh Bình Phước mà cả nước. Văn minh kiến trúc cổ thành đất đắp hình tròn.

Tín hiệu đầu tiên được biết đến thành đất cổ Bình Phước từ những năm đầu thập niên 1930. Học giả Louis Malleret đã có một số khảo sát bước đầu khi người Pháp khai thác vùng đất đỏ Đông Nam bộ để lập đồn điền. Theo thống kê của ông đăng trên tạp chí Viễn Đông Bác Cổ xuất bản năm 1958: “Có 18 thành đất cổ đắp hình tròn trên trung phần đất đỏ Nam Tây Nguyên”, trong đó Bình Phước có 12 thành và Kong Pông Chàm (Campuchia) 6 thành. Ông cho những công trình này là những công trình phòng thủ gọi là “Pháo Đài Mọi”.

Mãi đến năm 1980, Trung tâm Khảo Cổ học - Viện KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh có một số khảo sát phát hiện thêm một thành nữa tại phía bắc thị trấn Lộc Ninh. Tháng 10-1998, Bảo tàng tỉnh Bình Phước tìm được một thành tại xã Lộc Hòa - huyện Lộc Ninh và tháng 5-1999 lại thêm một thành nữa tại xã Lộc Thành - huyện Lộc Ninh, nâng tổng số thành đất cổ hiện có trên địa bàn tỉnh Bình Phước là 15 thành.

Qua tài liệu của L.Malleret và những khảo sát gần đây của Trung tâm Khảo cổ học Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng tỉnh Bình Phước, các thành đất cổ phân bố trên 3 huyện, Bình Long 9, Phước Long 3 và Lộc Ninh 3. Tất cả đều xây dựng trên những vùng đất đỏ Bazan, thường là địa hình, đồi dốc thoai thoải hoặc bằng phẳng và đặc biệt là lúc nào cũng gần một nguồn nước như: Thành Lộc Hòa có suối Nuy nằm cận Tây Thành, Thành Phú Miêng - huyện Bình Long về phía Nam là suối Lak, thành đất bắc thị trấn Lộc Ninh là con suối Rồng Gấm quanh năm ào chảy…

Tất cả các ngôi thành đất đều có cấu tạo với đường nét, kiến trúc giống nhau (chỉ khác về kích thước) gồm 2 vòng thành đất được đắp cao chạy song song nhau tạo thành những đường tròn đồng tâm. Vòng thành ngoài thường cao từ 2-4m, vòng trong từ 2-3m. Hai vòng thành phân cách bởi một hào rộng 2-3m, độ sâu 2-4m, bên trong là một khoảng đất bằng phẳng và rộng rãi, hơi trũng so với địa hình sông ngòi, đường kính của những ngôi thành này thường từ 100-140m, nhưng có một số thành có kích thước đặc biệt gấp đôi như thành Phú Miêng 240m, thành Lộc Hòa 180m.

Mỗi thành đều được bố trí hai cổng thành, thường nằm gần nhau, đối xứng nhau, phân biệt bởi hai ụ đất đắp cao nổi vượt vòng thành ngoài tạo thành một khung cửa hình chữ U. Thường là một cổng lớn và một cổng nhỏ, cổng lớn có kích thước rộng 3-5m, cao 3-4,5m luôn nằm về phía Đông - Đông Nam. Cổng nhỏ có kích thước rộng 2-3m, cao 2-3,5m nằm về phía Tây - Tây Bắc hoặc đường đến gần nguồn nước nhất.

Trên tất cả các ngôi thành, qua những lần khảo sát và một lần đào thám sát thành nào cũng có vô số di chứng, hiện vật rải khắp bên trong và trên hai vòng thành gồm có đồ đá và gốm: Đồ đá có rìu đá vai, rìu trơn, mảnh tước, dao, bàn mài đá… Những công cụ đá này có kích thước rộng 3,5cm, cao 8,12cm được gia công mài tinh xảo ở phần lưỡi, còn phần thân, cán lại rất thô sơ, đôi khi còn có cả vết ghè. Đồ gốm thường là 2 loại: gốm đen và gốm xốp (trộn bã thực vật) - Gốm có xương mỏng nhưng căn cứ các mảnh vỡ gồm hình cung thì tiếp diện lại lớn (trung bình 10-20cm). Hoa văn gốm thô và đơn giản, có hoa văn thừng, hình học… Đa số là hoa văn chải và trơn. Theo so sánh nhận định tại chỗ của chuyên gia khảo cổ thì gốm của các di chỉ này có độ nung khá cao (trong khoảng 500-700oC).

Kể từ ngày học giả L.Malleret phát hiện năm 1930 đến nay, trải qua 7 thập kỷ chúng ta vẫn chưa nghiên cứu và đề cập đến loại hình văn minh này một cách có hệ thống và ở tầm quy mô khoa học của một đề tài cấp tỉnh hoặc cao hơn ngoài một số bước khảo sát và những ngôi thành này vẫn chìm trong bí ẩn với những vấn đề chủ yếu đặt ra cần được giải đáp:

1. Xác định niên đại để biết di chỉ này có trước hay có sau các Nhà nước buổi đầu Công Nguyên hoặc tồn tại song song.

2. Chức năng của các ngôi thành này? Phòng chống thú dữ, ngoại xâm hay là một công trình mang tính thủy lợi…

3. Vấn đề quan trọng và cần cẩn thận là vấn đề chủ nhân các ngôi thành này - phải chăng một cộng đồng tộc người nào đó tồn tại ngày nay khả dĩ có thể là hậu duệ các chủ nhân các công trình này. Theo tài liệu địa chất thì trong 2.000-3.000 năm trở lại đây không có một địa chấn mới, hoặc một đại hồng thủy… có thể khiến họ rời khỏi địa bàn cư trú và nếu thế tại sao kiến trúc, hiện vật vẫn còn tồn tại?

Bài viết với tài liệu và thời gian còn giới hạn, giới thiệu chung về một loại hình văn minh tiền sử độc đáo của tỉnh nhà đồng thời đề cập đến một số vấn đề khoa học chủ yếu chưa được giải đáp xung quanh các ngôi thành đất cổ. Hy vọng các công trình kiến trúc tiền sử này sẽ là một đề tài nghiên cứu thú vị dành cho các nhà khoa học và hơn ai hết - những người làm công tác Bảo tồn - Bảo tàng có cơ sở để giới thiệu cho đông đảo quần chúng, khách tham quan về một quần thể di tích kiến trúc cổ, một nền văn minh tiền sử đặc biệt của tỉnh Bình Phước.

Nguồn Bình Phước: https://baobinhphuoc.com.vn/news/548/170662/bi-an-nhung-ngoi-thanh-dat-co-binh-phuoc
Zalo