Bảo tồn, phát triển nguồn gen cây trồng và vật nuôi có giá trị
Bảo tồn và phát triển các nguồn gen bản địa có giá trị là nhiệm vụ quan trọng nhằm duy trì đa dạng sinh học, nâng cao giá trị kinh tế, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân. Những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã triển khai nhiều chương trình, dự án để bảo tồn các giống cây trồng, vật nuôi bản địa, bước đầu mang lại kết quả khả quan.
Sản phẩm vịt Cổ Lũng đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý và công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao.
Một trong những thành công nổi bật trong công tác bảo tồn giống vật nuôi bản địa là việc khôi phục và phát triển giống vịt Cổ Lũng. Đây là giống vịt quý hiếm có nguồn gốc từ xã Cổ Lũng (Bá Thước), được người dân địa phương nuôi từ lâu đời nhưng từng đứng trước nguy cơ mai một.
Nhằm bảo tồn và phát triển giống vịt này, năm 2016 huyện Bá Thước triển khai Dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ phục hồi và phát triển giống vịt bản địa Cổ Lũng chất lượng tốt”. Dự án đã xây dựng thành công mô hình chăn nuôi vịt sinh sản, vịt thương phẩm theo hướng an toàn sinh học, giúp nâng cao năng suất và chất lượng con giống.
Nhờ sự hỗ trợ của chính quyền, nhiều hộ dân đã mở rộng quy mô chăn nuôi. Huyện Bá Thước đang tiếp tục triển khai dự án chăn nuôi vịt Cổ Lũng thương phẩm tại các xã Ban Công, Kỳ Tân, Điền Hạ, Thành Lâm, Cổ Lũng, Lũng Niêm, với hơn 26.000 con giống được cấp phát cho các hộ dân. Kết quả, đến cuối năm 2024 tổng đàn vịt Cổ Lũng trên địa bàn huyện đã đạt hơn 50.000 con. Đặc biệt, giống vịt này đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý và công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao.
Ông Hà Văn Tình, một hộ chăn nuôi vịt ở xã Cổ Lũng chia sẻ: “Nhờ giống vịt bản địa này mà gia đình tôi có thu nhập ổn định hơn. Trước đây, việc chăn nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nhưng giờ đã có sự hướng dẫn của cán bộ nông nghiệp, kỹ thuật chăn nuôi tốt hơn, vịt khỏe mạnh, ít bệnh hơn”.
Bên cạnh vật nuôi, tỉnh Thanh Hóa cũng chú trọng bảo tồn các giống cây trồng bản địa có giá trị. Đơn cử như đề án bảo tồn và phát triển bền vững cây quế Ngọc tại huyện Thường Xuân giai đoạn 2015-2020, định hướng đến năm 2025. Nhờ chương trình này, diện tích trồng quế đã mở rộng, với 1.479ha trồng xen canh cây keo lai, mang lại thu nhập khoảng 40 - 50 triệu đồng/ha. Đồng thời, huyện cũng đã đầu tư 6 hệ thống nồi nấu tinh dầu quế, giúp tận thu nguyên liệu từ cành, lá quế, phát triển sản phẩm tinh dầu quế OCOP 3 sao. Đến nay, huyện đã phát triển thêm 1.100ha quế tập trung, với mục tiêu năm 2025 đạt 9.000ha và 3,5 triệu cây quế trồng phân tán, tạo nguồn thu nhập ổn định cho hàng nghìn hộ dân.
Ngoài ra, nhiều giống cây trồng, vật nuôi khác cũng đang được bảo tồn và phát triển, như bưởi Luận Văn, quýt vòi, quýt hôi, cam Vân Du, dưa hấu Mai An Tiêm, ngan sen, lợn rừng, gà ri, bò vàng... Những nỗ lực này không chỉ giúp bảo vệ nguồn gen quý mà còn tạo cơ hội phát triển kinh tế cho người dân.
Theo số liệu khảo sát, tỉnh Thanh Hóa hiện có 756 nguồn gen cây trồng, vật nuôi và thủy sản có giá trị, trong đó 390 nguồn gen bản địa và 366 giống du nhập, lai tạo. Tỉnh đã thực hiện bảo tồn 119 đối tượng nguồn gen tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, đồng thời phát triển các sản phẩm từ nguồn gen này phục vụ sản xuất. Hiện có 231 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP 3 - 4 sao, trong đó 78 sản phẩm trực tiếp từ nguồn gen bản địa và 153 sản phẩm chế biến từ nguồn gen. Nhờ sự phối hợp giữa các cấp, ngành, sự huy động lồng ghép các chương trình, nguồn vốn hỗ trợ nên việc bảo tồn, phát triển giống cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc bản địa trên địa bàn tỉnh đã bước đầu đạt kết quả khả quan. Tuy nhiên, quá trình bảo tồn và phát triển nguồn gen cây trồng, vật nuôi vẫn gặp không ít khó khăn. Một trong những trở ngại lớn nhất là nhận thức của người dân về giá trị của giống bản địa còn hạn chế. Nhiều hộ chưa mặn mà với việc nhân giống, phát triển sản phẩm từ nguồn gen bản địa vì lo ngại về đầu ra và hiệu quả kinh tế so với các giống lai tạo, năng suất cao hơn. Ngoài ra, việc bảo tồn nguồn gen đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, trong khi kinh phí hỗ trợ từ ngân sách và các chương trình còn hạn chế. Công tác nghiên cứu, chọn lọc và nhân giống chưa được đầu tư đồng bộ, khiến tốc độ mở rộng diện tích trồng cây, tăng đàn vật nuôi diễn ra chậm.
Để khắc phục những khó khăn trên, các sở, ngành, đơn vị có liên quan của tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nhận thức rõ hơn về giá trị kinh tế của các giống bản địa, khuyến khích tham gia vào các mô hình sản xuất. Bên cạnh đó, cần thu hút thêm nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp và các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển sản phẩm từ nguồn gen bản địa theo hướng hàng hóa; đẩy mạnh liên kết với các đơn vị nghiên cứu, trường đại học để ứng dụng khoa học - công nghệ vào chọn lọc, nhân giống cũng là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ cụ thể hơn về vốn vay ưu đãi, đất đai, khoa học - kỹ thuật cho các hộ dân, HTX tham gia vào chương trình bảo tồn nguồn gen.