Bác Hồ với những mùa Xuân nơi biên cương Tổ quốc
Ngày 28/1/1941 (tức mùng Hai tháng Giêng năm Tân Tỵ), đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước là một dấu mốc lịch sử của dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước bước sang trang mới, con tàu cách mạng có người cầm lái vững vàng, nhân dân có người dẫn lối chỉ đường, phá gông xiềng phong kiến, thực dân để giành lấy độc lập, tự do. Đi vào văn chương, sự kiện ấy tỏa ra những ánh sáng nghệ thuật lung linh đa sắc màu ý nghĩa.
Trong "Theo chân Bác", Tố Hữu có những vần thơ thật đẹp, tinh tế, cảm động: “Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về... Im lặng. Con chim hót/ Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”. Chế Lan Viên nâng hình tượng Bác trở thành biểu tượng lớn lao, kỳ vĩ của lịch sử, của chân lý qua phong cách triết lý giàu chất suy tưởng: “Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất/ Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai” (Người đi tìm hình của nước). Giây phút thiêng liêng ấy, Bác Hồ đã hình dung ra hình hài đất nước tự do, độc lập.
Nhà thơ Nông Quốc Chấn viết "Bài thơ Pác Bó" có tứ thơ đặc sắc, độc đáo: “Người đi vòng quả đất/ Người về mở cửa hang/ Mở muôn ngàn con mắt/ Đón cờ đỏ sao vàng!”. “Người về mở cửa hang” vốn là mô típ (hay “mẫu gốc”) của thần thoại nguyên thủy cả phương Đông và phương Tây: người anh hùng phá cửa hang cứu người bị quỷ/giặc/phù thủy bắt nhốt... Truyện Thạch Sanh của ta cũng có chi tiết Thạch Sanh phá hang cứu công chúa chính là sự ánh xạ của cổ mẫu nguyên thủy này. Dùng hình tượng “mở cửa hang”, tức đã coi Bác là người đem lại tự do, đem lại sự sống cho con người.
Ngày 27/1/1941, Bác vẫn trên đất Trung Quốc, “Ngày mùng Một Tết Tân Tỵ, tại làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Trung Quốc), Người mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, đầu vấn khăn, tay chống gậy đi đến từng nhà, tặng tờ giấy hồng điều viết bằng chữ Hán: Cung chúc tân niên” (1). Ngày 28/1/1941, tức mùng Hai Tết Tân Tỵ, Bác qua biên giới về đất nước của mình. Những ngày này, Người thường cải trang làm một thầy địa lý hoặc thầy lang kiêm thầy cúng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại những ngày Tết ấy: “Nhìn Bác mặc bộ quần áo chàm, quần xắn cao, tay cầm gậy, đi chúc Tết nhân dân với dáng nhanh nhẹn, thái độ thoải mái, vui vẻ, nhớ lại khi Bác ở Côn Minh mặc âu phục cổ cồn, mũ phớt, tôi thấy Bác hòa vào trong hoàn cảnh mới một cách hết sức tự nhiên” (2). Đồng chí Vi Quốc Bảo kể: “Đó là hình ảnh ông cụ người Nùng, mặc bộ quần áo chàm giản dị, có vầng trán cao, đôi mắt sáng, nói tiếng Kinh với cách phát âm giống hệt người Tày - Nùng chúng tôi, nên nghe rất dễ hiểu” (3).
Năm 1942, Bác đón Xuân ở Pác Bó và có bài thơ Mừng Xuân Nhâm Ngọ 1942: “Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi/ Năm cũ qua rồi chúc năm mới/ Chúc phe xâm lược chóng diệt vong!/ Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi!/ Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!/ Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!/ Chúc toàn quốc ta trong năm này,/ Cờ đỏ ngôi sao bay phấp phới!/ Năm Tết là năm rất vẻ vang,/ Cách mệnh thành công khắp thế giới”. Ngày mùng Một Tết Nhâm Ngọ, tiếp đoàn thanh niên lên chúc Tết, Bác nhờ đoàn gửi lời chúc Tết người già cùng dân làng và gửi những phong bì giấy hồng điều, bên trong là đồng trinh nhỏ mừng tuổi các cháu. Ngày 15/2/1942, Người tặng cháu Nông Thị Trưng chiếc khăn mùi xoa có hoa đỏ và một chiếc còng gà luộc, theo quan niệm người Tày là mong muốn sự tốt lành, may mắn (4).
Mùa Xuân năm 1951, ngày 28/3, Bác đến thăm cán bộ, chiến sĩ 2 đại đội xe ô tô đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam tại xóm Nà Roác, xã Bạch Đằng (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng). Nhắc nhở bộ đội hậu cần phải trân quý, giữ gìn khí tài, quân dụng, Bác dùng biểu tượng: “Xe, xăng là mồ hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, yêu xe như con, quý xăng như máu” (5). Rất tinh tế, Bác chuyển sự quý giá thiêng liêng (xương máu) của nhân dân thành sự quý giá cá nhân (như máu) để làm bật ra cái ý: tài sản chung cũng quý như tài sản riêng!
Xin được nói thêm, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi đi công tác ở vùng biên giới Việt Bắc, Bác thường cải trang là một bộ đội già. Tết năm ấy (1949) rất lạnh, một đêm, Bác cùng mấy bảo vệ vào một nhà dân nghỉ nhờ, được cụ chủ nhà mời sắn nướng. Đây là lời kể của một cảnh vệ: “Ông cụ bóc được vỏ củ sắn nào lại đưa Bác. Bác hơ cho khô đi, rồi mới vùi xuống tro nóng để nướng. Nhìn Bác hơ củ sắn khô mà vẫn trắng và khi vùi tro, sắn chín vàng rất đều, còn chúng tôi hơ củ nào cứ bị dính bụi củ ấy. Ông cụ cười bảo: “Các đồng chí phải học cái ké bộ đội vớ! Trông cầm củ sắn là biết ngay người có ở núi hay không đấy” (6). Chỉ một câu nhận xét ấy cho thấy Bác đã rất hiểu phong tục, tập quán, cuộc sống người dân nơi biên cương. Trước hết, phải có một tấm lòng yêu thương, trân trọng đồng bào mới có sự hòa đồng đến mức không phân biệt chủ khách như vậy.
Xuân Tân Sửu 1961, từ ngày 19 đến ngày 21/2, Bác về thăm và chúc Tết đồng bào Pác Bó. Khi xe dừng bánh, đồng bào ùa ra xúm xít vây quanh như đón một người thân đi xa trở về, Người hỏi: “Bà con làm gì mà đông thế này?". "Đón Bác ạ! Năm mới chúc Bác mạnh khỏe ạ!”. Người lần lượt nhìn mọi người rồi nói: “Tôi về thăm nhà mà sao lại phải đón tôi!” (7). Chỉ một câu nói mà toát ra cả một tư tưởng lớn về đoàn kết keo sơn, gắn bó thương yêu: cả đất nước này là ngôi nhà, mọi người dân Việt Nam là anh em sống trong ngôi nhà ấy.
Vào thăm lại hang Pác Bó, bồi hồi nhớ về những ngày gian khổ, cảm xúc ùa đến, Người làm thơ: “Hai mươi năm trước ở hang này/ Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây/ Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu/ Non sông gấm vóc có ngày nay”. Ngày 21/21961, sau khi đi thăm một vài nơi tại thị xã Cao Bằng, Bác nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh. Những lời căn dặn ân tình không chỉ là mong muốn của Bác, mà còn là đường lối, mục đích phát triển của tỉnh: “Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở thành một trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như trước đây, Cao Bằng là một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”.
Hơn 80 năm trước, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), thực hiện chỉ thị của Bác, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Vùng biên cương ấy hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” đã đi vào lịch sử Việt Nam như miền cội nguồn văn hóa nuôi dưỡng niềm tin, sức mạnh cách mạng.
(1), (4), (7) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật 2006, tập 1, tr.253; tập 2, tr.161; tập 8, tr.31.
(2), (3) Nhiều tác giả - Bác Hồ, Hội Văn nghệ Cao Bằng 1990, tr.65, tr.89.
(5) Hồ Chí Minh toàn tập, 2002, tập 7, tr.58.
(6) Nguyễn Ngọc Châu - Đưa Bác về Pắc Bó, Nhà xuất bản Lao động, 2007, tr.192.
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú