1 luật sửa 5 luật: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền phúc thẩm các vụ việc dân sự
Ngày 12/5, Quốc hội nghe tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí báo cáo trước Quốc hội. (Ảnh: Quang Vinh)
Tại phiên họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí cho biết, trên cơ sở Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/2/2025, Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/2/2025, Kết luận số 135-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy Tòa án nhân dân bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới; Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; dự án Luật tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp trong giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, giải quyết phá sản, tổ chức thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, có liên quan trực tiếp đến tổ chức bộ máy, thẩm quyền của Tòa án nhân dân.
Dự thảo Luật gồm 6 điều, trong đó có 5 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của 5 Bộ luật, Luật gồm: Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung 47 điều; bãi bỏ điểm, khoản của 4 điều); Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi, bổ sung 23 điều; bãi bỏ điểm, khoản của 1 điều); Luật Tư pháp người chưa thành niên (sửa đổi, bổ sung 18 điều); Luật Phá sản (sửa đổi, bổ sung 7 điều); Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (sửa đổi, bổ sung 7 điều; bãi bỏ điểm, khoản của 1 điều) và 1 điều khoản thi hành.
Trên cơ sở mô hình tổ chức Tòa án nhân dân 3 cấp, theo ông Trí dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao với các nội dung cơ bản như: về thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực điều chỉnh tăng thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực theo hướng Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự, vụ án hành chính (Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 31 Luật Tố tụng hành chính); giải quyết phá sản (Điều 8 Luật Phá sản); tổ chức thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Điều 7 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án).
Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, ông Trí nêu rằng, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền phúc thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hành chính mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân khu vực chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị (Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính).
Bên cạnh đó, bổ sung thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (khoản 2 Điều 331, khoản 2 Điều 354 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 260, khoản 2 Điều 283 Luật Tố tụng hành chính); bổ sung thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (khoản 1 Điều 337 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 266 Luật Tố tụng hành chính).
Đồng thời, Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền về giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự; giải quyết phá sản; tổ chức thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại.
Về thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ông Trí thông tin, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị (khoản 2 Điều 337 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 266 Luật Tố tụng hành chính).