Y khoa Việt Nam: Trên con đường trở thành 'gã khổng lồ' Đông Nam Á
Một ca can thiệp tim bào thai phức tạp được thực hiện thành công cho sản phụ người Singapore tại Bệnh viện Từ Dũ (TPHCM) đã tạo nên dấu mốc đặc biệt: y học Việt Nam không còn là 'kẻ bên lề' trong khu vực. Từ những kỳ tích ghép tạng, can thiệp tối tân đến các sáng kiến kỹ thuật mang tầm quốc tế, ngành y tế Việt Nam đang chứng tỏ bản lĩnh, trí tuệ và nội lực mạnh mẽ để vươn lên thành trung tâm kỹ thuật cao của Đông Nam Á.
Khi ngoại khoa Việt Nam tạo dấu ấn vượt biên giới
Vừa qua, tại phòng mổ đặc biệt của Bệnh viện Từ Dũ, sản phụ K.W.S. – 41 tuổi, quốc tịch Singapore – đã trải qua một cuộc can thiệp tim bào thai phức tạp bậc nhất từ trước đến nay. Thai nhi 22 tuần tuổi mang nhiều dị tật tim nguy hiểm: hở van hai lá nặng, hẹp van động mạch chủ, thông liên thất và thiểu sản thất trái. Các bác sĩ tại Singapore khuyên nên đình chỉ thai kỳ vì “không còn hi vọng cứu sống”.

Các bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ (TPHCM) thực hiện ca can thiệp tim bào thai. Ảnh: BVCC
Tuy nhiên, nhờ lời giới thiệu từ chính giới chuyên môn Singapore, chị tìm đến Việt Nam – nơi duy nhất trong khu vực làm chủ kỹ thuật can thiệp tim bào thai. Ê-kíp hơn 20 bác sĩ của Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 đã thực hiện ca can thiệp lần thứ hai sau một lần thất bại, với kết quả ngoạn mục: tim thai đập lại mạnh mẽ, dòng máu thông thoáng trở lại.
Đây là ca thứ 9 được thực hiện tại Từ Dũ và là lần đầu tiên Việt Nam tiếp nhận bệnh nhân nước ngoài đến điều trị kỹ thuật can thiệp đặc biệt này. Với thành tựu này, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã gửi thư khen và nhấn mạnh: “Thành công này không chỉ là chuyên môn mà còn là biểu tượng nhân văn và hội nhập. Các kỹ thuật mới, phức tạp, được làm chủ hoàn toàn bởi y bác sĩ Việt Nam – đó là minh chứng cho nội lực của ngành y nước nhà”.
Tương tự, trong lĩnh vực ghép tạng – một thước đo kỹ thuật cao của y học hiện đại – Việt Nam cũng đang có bước tiến vượt bậc. Tính đến năm 2024, cả nước đã thực hiện hơn 9.500 ca ghép mô và tạng, với hơn 1.000 ca mỗi năm từ 2022 đến nay – đứng đầu Đông Nam Á về tốc độ tăng trưởng. Các kỹ thuật ghép tim xuyên Việt, ghép gan cho trẻ sơ sinh dưới 5kg, ghép đa tạng từ người cho chết não đã được thực hiện thành công, rút ngắn đáng kể khoảng cách với các trung tâm y học lớn trên thế giới.
Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh như Quảng Ninh, Huế, Thái Nguyên, Cần Thơ… cũng đã thực hiện ghép tạng thành công, thể hiện sự phát triển đồng đều cả về chiều rộng và chiều sâu của hệ thống y tế.
Không chỉ ở lĩnh vực can thiệp và ghép tạng, Việt Nam còn có những cá nhân tiên phong sáng tạo kỹ thuật mang tầm thế giới. Tiêu biểu là PGS.TS Trần Ngọc Lương - nguyên Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương, với phương pháp mổ tuyến giáp nội soi ngả nách – gọi tắt là “mổ Dr. Lương”. Kỹ thuật này giúp tránh sẹo cổ, giảm xâm lấn, đã được chuyển giao cho hơn 20 quốc gia và đưa vào hướng dẫn điều trị của nhiều hiệp hội y học khu vực.
Trong lĩnh vực phẫu thuật tiêu hóa và ngoại nhi, PGS.TS.BS Trần Ngọc Sơn - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn đã đưa bệnh viện trở thành địa chỉ tin cậy trong khu vực – ông là một trong hai bác sĩ đi đầu thế giới về thực hiện kỹ thuật phẫu thuật nội soi một lỗ điều trị nang ống mật chủ.
Một ví dụ tiêu biểu là trường hợp cháu bé O.L.V. (4 tuổi), con của một gia đình có bố người Australia, mẹ người Nga, đang sống tại Indonesia. Bé được chẩn đoán mắc bệnh nang ống mật chủ bẩm sinh – một bệnh lý cần phẫu thuật chuyên sâu. Sau khi tham khảo nhiều trung tâm y tế quốc tế, gia đình đã chọn Trung tâm Kỹ thuật cao – Bệnh viện Xanh Pôn. Ca mổ do ê-kíp do PGS.TS Trần Ngọc Sơn thực hiện đã diễn ra thành công, để lại ấn tượng sâu sắc.
Gia đình cháu bé sau đó đã gửi thư cảm ơn xúc động: “Chúng tôi không biết nói gì hơn về những điều tuyệt vời mà các y bác sĩ dành cho con chúng tôi”.
Từ bản lĩnh nội lực đến tầm nhìn hội nhập khu vực
Trong bản đồ y khoa Đông Nam Á, Singapore nổi bật với hệ thống y học chính xác và điều trị cá nhân hóa, trong khi Thái Lan phát triển mạnh mảng dịch vụ y tế kết hợp du lịch. Tuy nhiên, những thành tựu nói trên cho thấy, Việt Nam đang rút ngắn khoảng cách, với những bước đi chắc chắn cả về kỹ thuật, hệ thống và chất lượng nhân lực.
Điều khác biệt lớn nhất chính là khả năng điều trị các ca bệnh phức tạp với chi phí hợp lý, thời gian chờ ngắn và chất lượng chăm sóc ngày càng được cải thiện.
Một bệnh nhân người nước ngoài được điều trị thành công tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chia sẻ: “Tôi rất bất ngờ về sự chuyên nghiệp và thái độ ân cần các y bác sĩ của bệnh viện. Tôi thực sự rất biết ơn các bác sĩ, khi vào viện tôi được chăm sóc tận tình và kết quả điều trị rất tốt. Tôi thấy chất lượng y tế của bệnh viện thực sự tuyệt vời, thu hút người bệnh nước ngoài như chúng tôi”.
Bên cạnh đó, việc các bác sĩ Việt thực hiện thành công kỹ thuật mà ngay cả Singapore cũng chưa triển khai – như tim bào thai – là một minh chứng rõ ràng cho năng lực vượt trội trong một số lĩnh vực mũi nhọn.
Hàng năm, nhiều kiều bào và bệnh nhân quốc tế chọn về Việt Nam để điều trị, không chỉ vì tiết kiệm chi phí mà vì niềm tin vào tay nghề bác sĩ và sự tiến bộ kỹ thuật. Thống kê từ Bộ Y tế cho thấy, trung bình mỗi năm có khoảng 300.000 người từ nước ngoài đến Việt Nam khám, chữa bệnh. Một trong những lý do thu hút nhiều người về Việt Nam chữa bệnh là chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong nước đang được nâng cao, không thua gì nước ngoài.
Các chuyên gia đầu ngành Việt Nam cũng bắt đầu tham gia giảng dạy, chia sẻ tại các hội nghị quốc tế, từng bước đưa hình ảnh y học Việt ra thế giới.
Theo BS Nguyễn Huy Hoàng, Trung tâm Oxy cao áp, Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga (Bộ Quốc phòng): Thành tựu y học không chỉ nằm ở thiết bị hiện đại mà là ở khát vọng vươn lên và dám hành động. Từ những ca bệnh khó, chúng ta thấy hình ảnh người thầy thuốc Việt Nam không còn đứng bên lề, mà đã trở thành người kiến tạo kỹ thuật.
Có thể nhận thấy, nội lực của ngành y nước nhà đang được bồi đắp từ nhiều phía: chính sách đổi mới, hợp tác quốc tế sâu rộng và trên hết là tinh thần cống hiến, không ngừng học hỏi của đội ngũ thầy thuốc.
Từ chỗ đi sau, Việt Nam đang dần bước lên vị trí đồng hành cùng các quốc gia mạnh về y học trong khu vực. Không phải tất cả đều đã hoàn hảo, nhưng ngành y đã có đủ năng lực, tự tin và bản lĩnh để trở thành “gã khổng lồ y khoa” của Đông Nam Á bằng chính những ca bệnh thực tế, bằng những con người và những kỹ thuật mang thương hiệu Việt Nam.