Xét xử vụ án xảy ra ở Công ty Thái Dương: Chủ tịch công ty đất hiếm nói thông tư 'mập mờ'

Tại tòa, bị cáo Lưu Anh Tuấn, Chủ tịch Công ty Đất hiếm Việt Nam nhấn mạnh sự 'không rõ ràng' và 'mập mờ, phi logic' trong Thông tư của Bộ Công Thương liên quan đến vấn đề xuất khẩu đất hiếm.

Ngày 13/5, Tòa án nhân dân (TAND) TP Hà Nội tiếp tục phiên xét xử vụ án "Vi phạm quy định về thăm dò, khai thác tài nguyên", "Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng", "Gây ô nhiễm môi trường" và "Buôn lậu" xảy ra tại Công ty Thái Dương và một số đơn vị liên quan.

Trong vụ án, bị cáo Lưu Anh Tuấn, Chủ tịch Công ty Đất hiếm Việt Nam, bị truy tố về hai tội danh "Buôn lậu" và "Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng".

Theo cáo trạng, ông Tuấn giúp sức cho Đoàn Văn Huấn, Chủ tịch Công ty Thái Dương, che giấu doanh thu từ việc bán đất hiếm, để ngoài sổ sách hơn 20 tỷ đồng nên gây thiệt hại hơn 7 tỷ đồng tiền thuế. Bị cáo Tuấn còn chỉ đạo nhân viên lấy hóa đơn từ 15 doanh nghiệp hóa chất để "kê khống đầu vào", gây thiệt hại hơn 4 tỷ đồng.

Trong hành vi buôn lậu, Lưu Anh Tuấn chịu cáo buộc xuất khẩu trái phép hơn 473 tấn oxit đất hiếm trị giá hơn 379 tỷ đồng.

Các bị cáo tại phiên tòa. Ảnh: M. Hùng.

Các bị cáo tại phiên tòa. Ảnh: M. Hùng.

Tại tòa, bị cáo Tuấn thừa nhận hành vi vi phạm, nhưng "đổ lỗi" cho văn bản hướng dẫn của Bộ Công Thương không rõ ràng, việc truy tố theo các quy định này là chưa thuyết phục.

Cụ thể, về cáo buộc vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, ông Tuấn thừa nhận sai phạm nhưng mong Hội đồng xét xử xem xét bởi doanh nghiệp của ông mua đất hiếm để sản xuất phục vụ đề tài khoa học cấp Nhà nước về chế biến sâu; bản thân ông không được hưởng lợi gì.

Về cáo buộc buôn lậu, bị cáo Tuấn khẳng định toàn bộ hoạt động xuất khẩu đều đúng quy trình hải quan điện tử, phù hợp quy định pháp luật. Ông dẫn chứng công văn của Tổng cục Hải quan gửi cơ quan điều tra, trong đó nêu rõ công ty ông không vi phạm, khai đúng mã hàng, mô tả hàng hóa và xuất đúng chủng loại.

Công văn này còn nêu "trong trường hợp xuất khẩu 100% nguyên liệu trong nước thì vẫn được miễn thuế" nên bị cáo Tuấn cho rằng mã số hải quan mà công ty ông áp dụng phù hợp với Nghị định cho phép xuất khẩu các nguyên liệu đặc biệt, tinh khiết, đất hiếm cho các nước. Doanh nghiệp cũng chưa bao giờ phải làm việc trực tiếp với hải quan do quy trình xuất khẩu điện tử đơn giản.

Bị cáo Tuấn đặc biệt nhấn mạnh sự "không rõ ràng" và "mập mờ, phi logic" trong Thông tư của Bộ Công Thương liên quan đến vấn đề xuất khẩu đất hiếm đặc biệt về mã hàng hóa và hàm lượng đất hiếm được phép xuất khẩu.

Bị cáo cũng cho rằng việc truy tố cần cân nhắc trong bối cảnh đây là hoạt động gắn với định hướng quốc gia về khai thác, chế biến đất hiếm, trong điều kiện pháp lý còn nhiều bất cập.

Đáng chú ý, dù cho rằng cáo trạng truy tố mình chưa chính xác nhưng bị cáo Lưu Anh Tuấn vẫn nhận tội với lý do: "Không nhận sẽ mất đi một tình tiết giảm nhẹ nên tốt nhất là nhận".

Tuy nhiên, hành vi này của bị cáo đã bị chủ tọa nhắc nhở, yêu cầu bị cáo thể hiện quan điểm của mình chứ không phải nhận cho xong hay nói như ở các nước tư bản là thỏa thuận nhận tội để được giảm nhẹ.

Trước đó, cũng trong phần xét hỏi, cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường (TN&MT) Nguyễn Linh Ngọc khai không có ai tác động để ký giấy phép cho Công ty Thái Dương khai thác khoáng sản.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, năm 2012, Bộ TN&MT có quyết định giao ông Ngọc chỉ đạo, giải quyết lĩnh vực địa chất, khoáng sản và phụ trách Tổng cục Địa chất và Khoáng sản. Đây là đơn vị có nhiệm vụ tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản.

Từ năm 2011, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản nhận hồ sơ xin cấp phép khai thác đất hiếm tại mỏ Yên Phú của Công ty Thái Dương nên ông Ngọc ký báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về việc cấp giấy phép, nêu rõ "hồ sơ đề nghị cấp phép đã đủ điều kiện".

Văn phòng Chính phủ do vậy có công văn giao các bộ chỉ đạo chủ đầu tư lập dự án đầu tư chế biến sâu đất hiếm, báo cáo đánh giá tác động môi trường... Thủ tướng cũng có chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản.

Theo ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Công ty Thái Dương đã lập Dự án đầu tư xây dựng tổ hợp chế biến sâu đất hiếm gồm Nhà máy thủy luyện để chế biến oxit đất hiếm tại Yên Bái và Nhà máy chiết tách - chế biến oxit đất hiếm tại Đình Vũ (Hải Phòng).

Ngày 14/12/2012, Văn phòng Chính phủ có công văn gửi Bộ TN&MT, Bộ Công Thương, UBND tỉnh Yên Bái thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: "Đồng ý về nguyên tắc việc khai thác, chế biến quặng đất hiếm Yên Phú. Tuy nhiên, điều kiện là: "Quặng đất hiếm phải chế biến sâu, không xuất khẩu quặng thô và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về khoáng sản; không chuyển nhượng quyền khai thác cho tổ chức, cá nhân nước ngoài".

Nhận văn bản trên, ông Nguyễn Linh Ngọc đã chỉ đạo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản hoàn thiện hồ sơ cấp phép cho Công ty Thái Dương.

Tại thời điểm này, dự án đã thay đổi cả về quy mô và tính chất; không chỉ có dự án khai thác, tuyển quặng như khi xin cấp phép năm 2011 mà bao gồm cả 3 dự án không thể tách rời, gồm: Dự án khai thác, tuyển quặng; Dự án nhà máy thủy luyện Yên Bái và Dự án nhà máy chiết tách Hải Phòng. Thế nhưng, hồ sơ xin cấp phép của Công ty Thái Dương chỉ có giấy chứng nhận đầu tư Dự án khai thác, tuyển quặng do UBND tỉnh Yên Bái cấp năm 2011 (hết hạn năm 2012) nhưng chưa được gia hạn hoặc cấp mới; không có giấy chứng nhận đầu tư nhà máy thủy luyện Yên Bái và nhà máy chiết tách Hải Phòng. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của Công ty Thái Dương không đạt tỷ lệ bằng 30% tổng số vốn đầu tư của dự án như quy định của Luật Khoáng sản.

Tuy nhiên, nhóm cán bộ tại Tổng cục Địa chất và Khoáng sản vẫn sử dụng kết quả thẩm định cũ từ năm 2011 để trình hồ sơ. Thứ trưởng Nguyễn Linh Ngọc khi đọc và nghiên cứu hồ sơ, biết Công ty Thái Dương chưa đủ điều kiện nhưng vẫn ký chấp nhận cấp giấy phép vào năm 2013.

Hành vi của nhóm lãnh đạo, cán bộ Bộ TN&MT đã góp phần giúp Đoàn Văn Huấn tổ chức khai thác, tiêu thụ trái phép quặng đất hiếm, quặng sắt có tổng trị giá 736 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, nhóm lãnh đạo, cán bộ Sở TN&MT tỉnh Yên Bái gồm Hồ Đức Hợp, Lê Công Tiến, Bùi Đoàn Như biết Công ty Thái Dương đã bắt đầu khai thác, tiêu thụ đất hiếm từ năm 2020 và mắc những sai phạm về khai thác, đất đai, môi trường,...

Tuy nhiên, họ không ngăn chặn và thậm chí năm 2021, khi Công ty Thái Dương nộp hồ sơ xin gia hạn giấy phép khai thác khoảng sản, nhóm này còn báo cáo UBND tỉnh nội dung doanh nghiệp: "Đã chấp hành các quy định pháp luật trong hoạt động khai thác".

Trong phần xét hỏi chiều nay, cựu Thứ trưởng Nguyễn Linh Ngọc cho rằng, nếu Công ty Thái Dương thực hiện đầy đủ như giấy phép thì đã không có sai phạm xảy ra.

Bị cáo Ngọc trình bày, không có ai tác động bị cáo để ký giấy phép, bị cáo cũng không quen biết ông Đoàn Văn Huấn. Quá trình cấp phép, thủ tục, hồ sơ bị cáo nhận qua văn thư, nếu có vấn đề gì sẽ có ý kiến rồi trả lại, bị cáo Ngọc nói: "Tôi không quen biết ông Huấn nhưng có thể gặp bị cáo Huấn rồi, nhưng ở đâu, làm gì thì không nhớ".

Cũng theo lời khai của cựu Thứ trưởng Bộ TN&MT, thời điểm bị cáo ký giấy phép cho Công ty Thái Dương có sự thay đổi về luật. Việc truy tố bị cáo là có cơ sở, vì nếu so sánh quy định pháp luật thì thời điểm đó cấp phép là sai.

Văn Thanh

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/xet-xu-vu-an-xay-ra-o-cong-ty-thai-duong-chu-tich-cong-ty-dat-hiem-noi-thong-tu-map-mo-10305709.html
Zalo