Xây nền tăng trưởng không thể phụ thuộc mãi vào tín dụng

Tín dụng đang tăng cao là bệ đỡ cho tăng trưởng, nhưng gánh nặng đầu tư dài hạn khó có thể chỉ đặt lên vai ngân hàng vì có thể dẫn đến rủi ro hệ thống.

Lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng vẫn đang tăng, nhưng tốc độ chậm hơn đáng kể so với tín dụng. Ảnh minh họa: LÊ VŨ

Lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng vẫn đang tăng, nhưng tốc độ chậm hơn đáng kể so với tín dụng. Ảnh minh họa: LÊ VŨ

Tín dụng đang tăng nhanh

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại nghị trường Quốc hội gần đây lại tiếp tục đặt vấn đề về con số quy mô tín dụng đang phình to ra. Theo đó, tỷ trọng dư nợ trên GDP cuối năm đạt mức 134%, được xem là mức cao so với nhiều nước. Số liệu năm 2023 là 130%.

Đây không phải là lần đầu người đứng đầu cơ quan quản lý các tổ chức tín dụng bày tỏ mối lo ngại về rủi ro của ngành, khi đang phải “gánh” dòng vốn đầu tư trong nền kinh tế ngày càng nhiều hơn, đặc biệt là với những khoản vay có kỳ hạn trung và dài hạn. Nếu tiếp tục dựa vào chỉ mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện rủi ro vừa khó đạt mục tiêu tăng trưởng cao và đảm bảo an toàn hệ thống.

Thực tế hiện nay tín dụng vẫn đang tăng nhanh. Trong các cuộc trao đổi gần đây với KTSG Online, nhiều lãnh đạo ngân hàng chia sẻ rằng trong 6 tháng đầu năm, tín dụng đang tăng trưởng tốt. Tín dụng được hỗ trợ bởi nhu cầu thị trường vẫn có trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp.

Còn theo báo cáo đánh giá của Công ty chứng khoán MBS, tín dụng toàn hệ thống bắt đầu tăng mạnh từ tháng 2 năm nay, nhờ tâm lý tích cực hỗ trợ bởi mục tiêu tăng trưởng GDP 8% đi cùng con số mục tiêu tăng trưởng tín dụng được tăng thêm. Tính đến 16-6, tín dụng đã tăng 6,99% so với đầu năm, cao hơn so với mức 3,75% cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, nếu phân tích chi tiết hơn, điểm tích cực là trong những năm gần đây, tăng trưởng dư nợ kỳ hạn ngắn và kỳ hạn trung và dài hạn đang tương đối đồng đều; cũng như tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn đã tăng đáng kể so với những năm trước. Hiện cơ cấu tỷ lệ của hai loại này đang lần lượt là 55% và 45% tính đến cuối năm 2024.

Trong bối cảnh Việt Nam đang có nhiều dự án hạ tầng cần được triển khai, việc giải bài toán vốn lại trở nên cấp thiếp hơn. Mới đây ngành ngân hàng công bố gói tín dụng quy mô 500.000 tỉ đồng từ cam kết của những ngân hàng thương mại, tài trợ hạ tầng và công nghệ. Nhưng với quy mô tín dụng đang mở rộng nhanh đi cùng rủi ro an toàn hệ thống, dòng vốn từ các nhà băng không thể là nơi cung ứng vốn duy nhất cho các dự án dài hạn.

Giai đoạn 2018-2023, tín dụng trung và kỳ hạn dài tăng trưởng ổn định, nhưng vọt lên trong năm 2024, dẫn đến áp lực an toàn vốn của các nhà băng. Nguồn dữ liệu: Vietstats.

Giai đoạn 2018-2023, tín dụng trung và kỳ hạn dài tăng trưởng ổn định, nhưng vọt lên trong năm 2024, dẫn đến áp lực an toàn vốn của các nhà băng. Nguồn dữ liệu: Vietstats.

Đẩy nhanh phát triển thị trường vốn

Bà Nguyễn Thị Diệu Phương, Phó giám đốc điều hành Tập đoàn VinaCapital cho biết tại các quốc gia phát triển, vốn cổ phần là nguồn lực chính còn vốn ngân hàng chỉ đóng vai trò bổ trợ. Nhưng bối cảnh tại Việt Nam hiện nay thì ngược lại, dòng vốn cho doanh nghiệp tư nhân chủ yếu đến từ ngân hàng.

Lý do dòng vốn cổ phần quan trọng vì đây là dòng vốn dài hạn, mang tính đồng hành cùng doanh nghiệp, khác với hoạt động cho vay tính toán dòng tiền cụ thể của các nhà băng. Các nhà đầu tư chiến lược còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cấp năng lực quản trị, mở rộng thị trường và lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Do đó, theo bà Phương, điều cần thiết hiện nay trong việc tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân là phải khơi thông nguồn vốn cổ phần, từ đó đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, và bán dẫn trong thập kỷ tới. Đây là những mục tiêu mà Việt Nam đã nêu lên trong hàng loạt các nghị quyết mới về phát triển kinh tế.

Vốn cổ phần đến từ nhiều thị trường dưới các hình thức huy động khác nhau, từ thị trường chưa niêm yết cho đến cổ phiếu hay trái phiếu. Theo đánh giá của các nhà quản lý quỹ, hiện quy mô ngành quỹ Việt Nam vừa nhỏ vừa thiếu các quỹ chuyên nghiệp. Điều này càng khiến cho chi phí huy động cao, biến động trên thị trường lớn vì giao dịch toàn nhà đầu tư cá nhân.

Chẳng hạn, quy mô tổng tài sản các quỹ mở tính trên GDP của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 6% trên GDP, thấp hơn nhiều so với Thái Lan và Malaysia (lần lượt 21% và 53%). Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều loại hình quỹ giúp huy động vốn chi phí thấp của xã hội như quỹ hưu trí tự nguyện. Tại nhiều quốc gia, đây là nhóm nhà đầu tư chiếm tỷ trọng rất lớn về quy mô như Mỹ 27%, Hàn Quốc 11%, Thái Lan 5%.

Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn đang là một trong những mục tiêu hàng đầu của Bộ Tài chính, được nhấn mạnh nhiều lần trong các buổi nói chuyện hay hội thảo gần đây, trong kế hoạch chung là nâng cấp thị trường cổ phiếu, mở rộng thêm nhiều sản phẩm và nền tảng pháp lý liên quan.

Nguồn nội lực đầu tư hiện chủ yếu đến từ các ngân hàng, mà thực tế đa phần là nguồn vốn huy động ngắn hạn từ người dân. Tuy nhiên, dòng vốn nội cũng không hề thiếu khi nhìn vào con số tỷ lệ tiết kiệm của người dân Việt Nam, chỉ thiếu nền tảng và các sản phẩm đầu tư dài hạn.

Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang tăng tốc đầu tư nhiều phương án hạ tầng, nhu cầu đầu tư sẽ buộc cơ chế hút vốn có sự thay đổi theo chiều hướng thu hút thêm nhiều nguồn lực xã hội tham gia.

Chẳng hạn, trong diễn biến có liên quan, Chính phủ mới đây đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng hình thức đầu tư tư nhân cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, thay vì dự kiến vốn đầu tư công như trước đó. Động thái này diễn ra sau khi nhiều doanh nghiệp đề xuất tham gia theo hình thức đầu tư tư nhân trực tiếp.

Một sự bổ sung quan trọng là nguồn lực ngoại. Chẳng hạn như vốn nước ngoài bao gồm nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp và vay nợ nước ngoài. Với các chỉ tiêu nợ công và nợ nước ngoài hiện nay, Việt Nam vẫn còn dư địa để mở rộng thu hút vốn nước ngoài.

Huy động nguồn lực ngoại có một dự án đặc biệt quan trọng là trung tâm tài chính quốc tế, hiện đang được Quốc hội xem xét. Trong dự thảo, các tiêu chí liên quan đến dòng vốn được cho là khá cởi mở nhằm thu hút các nhà đầu tư quốc tế đến với trung tâm tài chính tương lai này nhiều hơn.

Nhìn chung, mục tiêu tăng trưởng trong năm nay dường như vẫn còn phải phụ thuộc nhiều vào nhóm ngân hàng, trong khi tín dụng gần như tập trung nhiều vào hoạt động bất động sản. Đây cũng là hai nhóm chiếm hơn một nửa giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam. Muốn thay đổi bức tranh này, cũng như để thúc đẩy Việt Nam tăng trưởng cao trong dài hạn, cần nhiều nhóm ngành nghề hơn cùng đi lên. Điều kiện cần vẫn là phải có "vốn mồi" và "chất xúc tác" cần thiết khác để doanh nghiệp nhanh trưởng thành hơn.

Dũng Nguyễn

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/xay-nen-tang-truong-khong-the-phu-thuoc-mai-vao-tin-dung/
Zalo