VKSND huyện Bình Giang phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm mở rộng vụ án dân sự
Mới đây, VKSND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã phối hợp với TAND huyện tổ chức phiên tòa xét xử rút kinh nghiệm mở rộng đối với vụ án dân sự sơ thẩm 'Tranh chấp chia di sản thừa kế'.
Tham dự phiên tòa có đại diện Phòng 9 - VKSND tỉnh, Lãnh đạo, Kiểm sát viên, Chuyên viên VKSND huyện Bình Giang và đại diện Lãnh đạo, Kiểm sát viên của VKSND huyện Cẩm Giàng, Thanh Miện.
Vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế” giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị C ( sinh năm 1959) và bị đơn là ông Vũ Đình T ( sinh năm 1972), đều trú tại: thôn Bằng Trai, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương là vụ án dân sự có tính chất phức tạp, điển hình, xảy ra phổ biến ở địa phương, có nhiều người tham gia tố tụng, có luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.
Vụ án có nội dung như sau: Cụ Vũ Đình S (mất năm 1987) và cụ Vũ Thị Tr (mất năm 2014) sinh được 4 người con gông: bà Vũ Thị C, bà Vũ Thị Kim Ch, bà Vũ Thị Th và ông Vũ Đình T (cụ S và cụ Tr không có con nuôi và con riêng). Khi cụ S còn sống, theo bản đồ địa chính 299 gia đình cụ S và cụ Tr đã sử dụng 2 thửa đất số 428 diện tích 309m2 và thửa 449 diện tích 28m2 ở thôn Bằng Trai, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Giang (nguồn gốc do ông bà tổ tiên để lại), nhưng do chính sách đất đai thời điểm đó nên cụ S và cụ Tr chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ). Trên thửa đất số 428 có ngôi nhà cấp 4 do gia đình cụ S xây dựng từ năm 1982. Năm 1987, cụ S mất không để lại di chúc.
Ngày 27/12/1996, cụ Vũ Thị Tr được Chủ tịch UBND huyện Cẩm Bình cấp GCNQSDĐ số E0412528 đối với 2 thửa đất mà gia đình sử dụng từ khi cụ S còn sống như nêu trên, có sự thay đổi về số thửa và diện tích của thửa đất, cụ thể: Thửa đất số 220, tờ bản đồ số 01 xã Vĩnh Hồng, có diện tích 284m2 đất ở lâu dài (gọi tắt là thửa đất số 220); Thửa đất số 232, tờ bản đồ số 01 xã Vĩnh Hồng, có diện tích 46m2 đất ở trồng cây lâu năm (gọi tắt là thửa đất số 232).
Sau khi cụ S mất, bà C, bà Ch, bà Th đi lấy chồng, cụ Tr ở cùng gia đình người con trai út là ông Vũ Đình T trên 2 thửa đất nêu trên. Ngày 20/3/2011 cụ Tr lập văn bản đề là “Giấy chuyển quyền sử dụng đất ở” có nội dung thể hiện cụ Tr chuyển quyền sử dụng diện tích 330m2 của 2 thửa đất 220 và 232 cho ông T sử dụng lâu dài (có xác nhận của Trưởng thôn, cán bộ địa chính và Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hồng).
Khi biết cụ Tr làm giấy chuyển quyền sử dụng đất cho ông T, bà C, bà Ch, bà Th phản đối nên ông T không làm thủ tục theo quy định để chuyển quyền sử dụng đất từ cụ Tr sang tên ông. Năm 2014, cụ Tr mất, sau khi cụ Tr mất ông T và gia đình tiếp tục quản lý và sử dụng 2 thửa đất 220 và 232. Đến khoảng năm 2022, ông T phá dỡ ngôi nhà cấp 4 xây năm 1982 trên thửa đất số 220 để xây nhà mới, lúc này các bà C, bà Ch, bà Th không đồng ý.
Ngày 09/3/2023, bà C nộp đơn khởi kiện và các tài liệu có liên quan yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của cụ S và cụ Tr là 2 thửa đất số 220 và 232 và yêu cầu tuyên bố Giấy chuyển quyền sử dụng đất giữa cụ Tr và ông T vô hiệu. Đề nghị phân chia cho bà C, bà Ch và bà Th mỗi người được hưởng ¼ di sản thừa kế, tạm tính theo giá trị là 150.000.000 đồng, bà Ch, bà Th đề nghị hợp nhất di sản của mình với di sản của bà C để xây dựng lại nhà thờ cho cụ S và vụ Tr.
Ông T không đồng ý vì toàn bộ quyền sử dụng 2 thửa đất số 220 và 232 ông đã được cụ Tr chuyển giao, ông là người chăm sóc phụng dưỡng, thờ tự ông bà tô tiên, ông không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của các bà C, bà Th, bà Ch, ông T đề nghị xem xét thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phân chia di sản của vụ S.