Việt Nam có tiềm năng lớn trong chuỗi phân phối LNG toàn cầu
Việt Nam có nhiều cơ hội để gia tăng sự tham gia vào chuỗi cung ứng LNG toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu về năng lượng sạch và giảm phát thải gia tăng. Ngành công nghiệp LNG tại Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới...
Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng toàn cầu ngày càng gia tăng, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) đã trở thành một giải pháp quan trọng giúp các quốc gia giảm thiểu sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, đồng thời đáp ứng nhu cầu năng lượng trong những điều kiện khắc nghiệt của thị trường quốc tế.
Bên cạnh 13 dự án LNG vừa được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG tại một số cảng nhập khẩu LNG hiện đại như Cảng LNG Sơn Mỹ và Cảng LNG Thiên Tân… , mở ra cơ hội cho Việt Nam tham gia vào thị trường LNG toàn cầu, với tiềm năng trở thành trung tâm phân phối LNG trong khu vực Đông Nam Á.
NGÀNH CÔNG NGHIỆP LNG NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM
Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường năng lượng và những chính sách ưu tiên trọng điểm từ Chính phủ, ngành công nghiệp LNG tại Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới.
Tại diễn đàn Chuỗi phân phối LNG toàn cầu và vị thế của Việt Nam được tổ chức ngày 18/12 tại Hà Nội, các chuyên gia cho biết Việt Nam, với vị trí chiến lược tại khu vực Đông Nam Á, đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng LNG toàn cầu.
Với nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng và việc chuyển đổi từ năng lượng than sang năng lượng sạch, Việt Nam đang trở thành một trong những thị trường tiêu thụ LNG lớn nhất trong khu vực. Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của ngành công nghiệp LNG tại Việt Nam.
"Năm 2023, Việt Nam chính thức ghi tên vào bản đồ LNG toàn cầu với vai trò là nhà nhập khẩu mới. Với địa lý thuận lợi, gần các tuyến hàng hải quốc tế, hệ thống cảng biển hiện đại, gần các trung tâm LNG lớn của Đông Nam Á, cùng với sự cam kết chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, Việt Nam đang được biết đến là một nhà nhập khẩu tiềm năng và tương lai sẽ là “mắt xích” quan trọng trong chuỗi LNG toàn cầu".
Ths. Nguyễn Đức Tùng, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương.
Bà Đặng Thị Thủy, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương), cho biết nhu cầu thị trường khí Việt Nam, bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu giai đoạn 2030– 2050, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40– 45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ dao động từ 55– 60%. Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: sản xuất điện; nông nghiệp; sản xuất phân bón và hóa dầu.
Theo nghiên cứu Wood Mackenzie, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc vào các khoản đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng khí đốt, hợp đồng LNG và những cải cách chính sách quan trọng, khi nhu cầu về khí đốt của quốc gia dự kiến tăng trung bình 12%/năm và có thể tăng gấp ba lần vào giữa những năm 2030.
Trong đó, tiêu thụ khí đốt sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu năng lượng ngày càng cao hơn, từ 8 triệu tấn dầu quy đổi (Mtoe) vào năm 2020 lên 20 Mtoe vào năm 2035. Ngành điện lực sẽ tiếp tục dẫn đầu trong tiêu thụ khí đốt, với dự báo nhiên liệu này sẽ đóng góp tới 14% tổng sản lượng điện vào năm 2030.
Ths. Nguyễn Đức Tùng, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương, cho biết năm 2023, Việt Nam chính thức ghi tên vào bản đồ LNG toàn cầu với vai trò là nhà nhập khẩu mới. Với địa lý thuận lợi, gần các tuyến hàng hải quốc tế, hệ thống cảng biển hiện đại, gần các trung tâm LNG lớn của Đông Nam Á, cùng với sự cam kết chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, Việt Nam đang được biết đến là một nhà nhập khẩu tiềm năng và tương lai sẽ là “mắt xích” quan trọng trong chuỗi LNG toàn cầu nói chung và của khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Theo các chuyên gia, Việt Nam hiện có nhiều cơ hội để gia tăng sự tham gia vào chuỗi cung ứng LNG toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh nhu cầu về năng lượng sạch và giảm phát thải gia tăng. Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lý, gần các tuyến đường vận chuyển LNG quan trọng trên thế giới, cùng với các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ.
HỢP TÁC QUỐC TẾ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC THÁCH THỨC
Mặc dù có nhiều tiềm năng, tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với một số thách thức lớn. Cơ sở hạ tầng LNG trong nước vẫn còn nhiều hạn chế, với việc phát triển cảng biển, kho chứa và hệ thống vận chuyển LNG cần được cải thiện để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nhanh chóng.
Bên cạnh đó, do mới phát triển nên lượng tiêu thụ LNG của Việt Nam còn thấp. Năm 2023, tổng sản lượng nhập khẩu đạt xấp xỉ 0,1 MT, chỉ chiếm 0,2% tổng lượng LNG nhập khẩu toàn cầu.
Theo các chuyên gia cũng cho biết do gia nhập thị trường LNG quốc tế muộn, Việt Nam buộc phải tuân thủ các thông lệ quốc tế được định sẵn trong quá trình nhập khẩu LNG. Mặt khác, cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cho việc nhập khẩu LNG đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Tình hình địa chính trị trên thế giới căng thẳng với cuộc xung đột Nga – Ukraine, tạo nên nhiều biến động lớn về nguồn cung và mức giá LNG trong thời gian tới.
Các chuyên gia nhấn mạnh rằng để thành công trong ngành công nghiệp LNG toàn cầu, hợp tác quốc tế cũng là yếu tố quan trọng để Việt Nam gia tăng vai trò trong chuỗi cung ứng LNG. Các đối tác quốc tế có thể giúp Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ và các mô hình kinh doanh hiệu quả, đồng thời tạo ra cơ hội hợp tác trong các dự án lớn về LNG.
Các dự án đầu tư lớn trong cơ sở hạ tầng LNG, cùng với sự hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, sẽ giúp Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước mà còn góp phần vào chuỗi cung ứng LNG toàn cầu.
Bên cạnh đó, các chuyên gia nhấn mạnh rằng Việt Nam cần tập trung vào việc đầu tư vào công nghệ và hạ tầng. Điều này bao gồm việc phát triển các cơ sở hạ tầng hiện đại để nhập khẩu và phân phối LNG, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong quá trình vận chuyển và xử lý khí tự nhiên hóa lỏng.
Ông Nguyễn Ngọc Hiếu, Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương), cho biết thêm bên cạnh việc Chính phủ luôn quan tâm đầu tư và phát triển ngành Dầu khí, có định hướng phát triển theo từng thời kỳ, nhu cầu sử dụng các sản phẩm khí xanh, sạch ngày càng cao, thì các cơ chế, chính sách mới đang được hoàn thiện; giá điện LNG cao hơn so với giá các nguồn điện truyền thống dẫn đến khó cạnh tranh; chi phí đầu tư cao do công nghệ phức tạp và có bản quyền, thị trường toàn cầu biến động...