Việt Nam có khoảng 33 cảng hàng không vào năm 2050
Bộ Giao thông vận tải vừa ban hành Quyết định 142/QĐ-BGTVT ngày 12/02/2025 phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Cảng hàng không quốc tế Gia Bình được bổ sung vào Quy hoạch hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030. (Ảnh minh họa)
Theo đó, Cảng hàng không quốc tế Gia Bình (tỉnh Bắc Ninh) được bổ sung vào Quy hoạch hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Cảng hàng không quốc tế Gia Bình có quy mô sân bay cấp 4E; công suất thiết kế dự kiến khoảng 1 triệu hành khách/năm trong thời kỳ 2021 - 2030 và khoảng 3 triệu hành khách/năm tầm nhìn đến năm 2050; diện tích đất dự kiến khoảng 363,5ha.
Ước tính, chi phí đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình theo quy hoạch khoảng 17.682 tỷ đồng trong thời kỳ 2021 - 2030 và khoảng 12.083 tỷ đồng tầm nhìn đến năm 2050.
Sau đó, UBND Thành phố Hà Nội đã thống nhất về phương án tuyến kết nối từ sân bay Gia Bình (tỉnh Bắc Ninh) về trung tâm thành phố (đoạn tuyến trên địa phận Thành phố Hà Nội) - phương án 1 theo đề xuất của Sở Quy hoạch - Kiến trúc. Tổng chiều dài toàn tuyến Bắc Ninh - Hà Nội là 49,52km, trong đó chiều dài đoạn tuyến qua địa phận Hà Nội là 28,58km.
Cũng theo Quyết định 142/QĐ-BGTVT, diện tích đất chiếm dụng dự kiến của quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 sẽ điều chỉnh từ khoảng 23.831ha lên khoảng 24.195ha.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 điều chỉnh từ khoảng 420.000 tỷ đồng lên khoảng 438.000 tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 648/QĐ-TTg ngày 07/06/2023 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quy hoạch có mục tiêu đến năm 2030 sẽ phát triển hệ thống cảng hàng không theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu vận tải, hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo vệ môi trường, tiết kiệm các nguồn tài nguyên; bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030.
Tổng sản lượng hành khách thông qua các cảng hàng không khoảng 275,9 triệu hành khách (chiếm 1,5 - 2% thị phần vận tải giao thông và chiếm 3 - 4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh). Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng hàng không khoảng 4,1 triệu tấn (chiếm 0,05 - 0,1% thị phần vận tải giao thông).
Về kết cấu hạ tầng, quy hoạch ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng Thành phố Hồ Chí Minh; từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả các cảng hàng không hiện hữu, tiếp tục nghiên cứu, đầu tư các cảng hàng không mới để nâng tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 294,5 triệu hành khách, phấn đấu trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km; Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải; Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.
Tầm nhìn đến năm 2050, nước ta sẽ hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế ngang tầm khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng Thành phố Hồ Chí Minh; Đầu tư đưa vào khai thác các cảng hàng không mới, phấn đấu khoảng 97% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km; Mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không tại các trung tâm kinh tế vùng, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng và thiết bị bảo đảm hoạt động bay, đồng bộ, hiện đại ngang tầm quốc tế; Hình thành các trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay hiện đại.
Trong thời kỳ 2021 - 2030, hệ thống cảng hàng không toàn quốc được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, hình thành 30 cảng hàng không. Trong đó, 14 cảng hàng không quốc tế là Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc. 16 cảng hàng không quốc nội là Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Thành Sơn và Biên Hòa (2 sân bay Thành Sơn, Biên Hòa được quy hoạch thành cảng hàng không để khai thác lưỡng dụng).
Vị trí quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 28/04/2011 tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng tiếp tục được duy trì.
Tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam sẽ có 33 cảng hàng không. Trong đó, 14 cảng hàng không quốc tế là Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc.
19 cảng hàng không quốc nội là Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Biên Hòa, Thành Sơn và Cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam, Nam Thủ đô Hà Nội.