Việt Nam cất cánh là ước mơ táo bạo, là mệnh lệnh thôi thúc mỗi người dân
Trao đổi với Báo Đầu tư nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, GS-TS. Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore) không giấu được vui mừng và kỳ vọng về những biến chuyển chưa từng có của đất nước trong những ngày này, sau lời hiệu triệu về kỷ nguyên vươn mình của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Thưa Giáo sư, cách đây tròn 1 năm, tháng 1/2024, trong cuộc trao đổi với Báo Đầu tư nhân dịp Tết Giáp Thìn, ông đã nhắc đến một Việt Nam với “tâm thế vượt lên” và chia sẻ những dự cảm về một “kỷ nguyên cất cánh” của dân tộc, của đất nước. Nay, chúng ta đang nói đến “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Ông có bình luận gì về khát vọng và quyết tâm vươn mình của đất nước, của dân tộc?
Là người đã trăn trở và trông đợi rất nhiều năm về thời điểm cất cánh của Việt Nam, tôi thực sự vui mừng và kỳ vọng về những biến chuyển chưa từng có của đất nước trong những ngày này, sau lời hiệu triệu về kỷ nguyên vươn mình của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Nó làm sống lại những cảm xúc đặc biệt trào lên từ hơn 30 năm trước, khi tôi lần đầu tiên đọc những dòng dưới đây từ cuốn sách The Theory of Economic Growth (Lý thuyết Tăng trưởng kinh tế) của nhà kinh tế học được Giải thưởng Nobel, Arthur Lewis, ở thư viện Trường Quản trị Kinh doanh Harvard, nơi tôi theo học chương trình MBA vào những năm 1993 - 1995.
“Mọi quốc gia đều có được cơ hội để nắm bắt cho công cuộc phát triển nếu họ hội tụ đủ lòng quả cảm và ý chí vươn lên. […] Một đất nước có thể bước vào giai đoạn phát triển cất cánh nếu may mắn có được đội ngũ lãnh đạo xứng tầm xuất hiện vào đúng thời điểm. […] Không có quốc gia nào đạt được tiến bộ kinh tế [vượt bậc] nếu thiếu vắng nỗ lực kích hoạt tích cực từ một chính phủ thông tuệ...” (trang 418).
Cuốn sách xuất bản vào năm 1955, hàng thập kỷ trước khi chúng ta chứng kiến sự xuất hiện của các nền kinh tế thần kỳ châu Á, nên những dòng trích dẫn trên có tính tiên tri nhiều hơn là tổng kết. Nó cũng còn nguyên giá trị khi chúng ta hồi tưởng về những thành quả của công cuộc cải cách của Việt Nam trong gần bốn thập kỷ qua và nghĩ đến Vận Nước trong những ngày này.
Bài học từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một dân tộc, sau những bước chuẩn bị ban đầu, thường cần ít nhất hai thập kỷ cho giai đoạn cất cánh để làm nên kỳ tích phát triển. Khả năng cất cánh của Việt Nam trong hai thập kỷ tới, từ năm 2025 đến năm 2045, để trở thành một quốc gia phát triển, do vậy, sẽ vừa là một ước mơ táo bạo, vừa là một mệnh lệnh thôi thúc mà người Việt Nam, dù ở bất kỳ điều kiện hay cương vị nào, đều có sứ mệnh phải hết lòng thực hiện.
Nếu không tận dụng được cơ hội phát triển vô giá này để làm nên kỳ tích phát triển trong hai thập kỷ tới, thế hệ hôm nay sẽ mãi mãi hổ thẹn với thế hệ cha anh và day dứt, ân hận với thế hệ mai sau.
Để hiện thực hóa “kỷ nguyên vươn mình”, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Thưa ông, ở thời điểm này, đâu là thách thức lớn nhất mà chúng ta phải vượt qua?
Trong hành trình đi tới tương lai của mình, mỗi quốc gia, dù ở mức độ phát triển nào, đều có thể rơi vào cạm bẫy, bế tắc do 3 thách thức điển hình.
Thứ nhất, đó là thiếu tư duy thời đại và tầm nhìn về tương lai. Thứ hai, đó là thiếu lòng tin lẫn nhau, bấn loạn trong xung đột nội bộ. Thứ ba, đó là các khó khăn có tính cấu trúc, đặc biệt về thiết chế cũ mà các nỗ lực thông thường khó có thể vượt qua.
Với Việt Nam, theo tôi, thách thức thứ nhất - “tư duy thời đại và tầm nhìn về tương lai” là lớn nhất, sau đó là thách thức thứ ba - “các khó khăn cấu trúc về thiết chế”.
Ở thách thức thứ nhất, chúng ta đã nói nhiều đến sự cấp bách phải đổi mới tư duy. Tuy nhiên, đổi mới tư duy theo cách phá rào, thay đổi tư duy cũ bằng tiếp cận tư duy thông lệ của quốc tế đã đem lại những kết quả khích lệ cho cải cách trong các thập kỷ qua, nhưng không đủ để Việt Nam cất cánh trong hai thập kỷ tới. Bước phát triển vượt bậc đòi hỏi tư duy chiến lược mang tính thời đại và tầm nhìn sáng rõ về tương lai.
Để vượt qua thách thức đó, điểm mấu chốt nhất, cốt lõi nhất chúng ta cần làm là gì, thưa ông?
Theo tôi, điểm cốt lõi nhất tạo nên sức mạnh trỗi dậy của Việt Nam trong hai thập kỷ tới là tiến hành mạnh mẽ các nỗ lực đột phá trong chỉnh thể gồm 5 trọng tâm, trong đó 3 trọng tâm đã được xác định rõ trong các nghị quyết của Đảng và Nhà nước; đó là “thể chế”, “hạ tầng” và “nguồn nhân lực”.
Tuy nhiên, để các nỗ lực đột phá theo 3 trọng tâm trên thực sự xứng tầm và mang lại đổi thay như mong đợi, chúng ta cần bổ sung 2 trọng tâm đột phá: “tư duy thời đại và tầm nhìn về tương lai”; “hội nhập quốc tế”.
Chẳng hạn, với các nỗ lực đột phá theo trọng tâm “tư duy thời đại và tầm nhìn về tương lai”, chúng ta sẽ đặc biệt chú ý xây dựng hệ thống văn bản pháp luật và thiết kế bộ máy không chỉ nhằm tháo gỡ khó khăn hiện tại, mà còn đặc biệt chú trọng để lại di sản thể chế mà thế hệ tương lai cảm phục và tự hào. Cũng với trọng tâm đột phá này, chúng ta sẽ quyết liệt hơn trong xây dựng hệ thống tàu điện ngầm và quy hoạch đô thị khi giải quyết nạn kẹt xe ở TP.HCM và Hà Nội, thay vì dồn sức xây cầu vượt và cơi nới đường.
Với nỗ lực đột phá theo trọng tâm “hội nhập quốc tế”, chúng ta sẽ đưa ra những cải cách đặc sắc vượt xa cách tiếp cận truyền thống về trải thảm đỏ thu hút FDI và xúc tiến xuất khẩu. Các đột phá ở trọng tâm này chú ý khai thác nguồn lực toàn cầu ở đẳng cấp cao, chú trọng không chỉ về tài chính và công nghệ, mà về kinh nghiệm phát triển nội sinh và đầu tư nâng cấp nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo hướng này, thiết lập các khu thương mại tự do là một ưu tiên cấp bách. Kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong thiết lập các khu thương mại tự do trong 10 năm qua đem lại những bài học đáng tham khảo. Từ khu thương mại tự do đầu tiên được lập ở Thượng Hải vào năm 2013 để thử nghiệm, Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng thành 21 khu trên cả nước.
Với diện tích khoảng 120 km2 (trừ một số trường hợp đặc biệt) và tập trung vào thử nghiệm cơ chế, chính sách (không cần hàng rào cứng), các khu thương mại tự do đã giúp Trung Quốc có những bước tiến quan trọng trong thực hiện 5 mục tiêu thử nghiệm chiến lược: (i) tạo môi trường kinh doanh đạt chuẩn mực quốc tế cao nhất trong hấp dẫn đầu tư; (ii) tự do hóa thương mại, bỏ tối đa rào cản về thuế quan và thủ tục; (iii) cải cách tài chính, thử nghiệm cho vay vốn xuyên biên giới; (iv) thúc đẩy nâng cấp nền tảng công nghiệp, xúc tiến thu hút các ngành kinh tế và công nghiệp có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ số và bán dẫn; (v) phát triển, gia cường khả năng cạnh tranh quốc tế và vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Học hỏi về các kinh nghiệm thu địa tô tăng thêm từ đất (land betterment fees) có thể giúp Việt Nam thu hàng chục tỷ USD mỗi năm nhờ đầu tư vào hạ tầng. Đó là một trong những công thức cơ bản về phát triển nội sinh: càng đầu tư đúng đắn, nhanh và mạnh với tầm nhìn xa sẽ càng dồi dào nguồn lực và tăng lòng tin của xã hội.
Chú trọng thu hút nhân lực chất lượng cao giúp Việt Nam không chỉ phát triển nhanh hơn nguồn nhân lực chất lượng cao bản địa, mà còn giúp đội ngũ này tạo nên khả năng kiến tạo giá trị lớn hơn và có sức lan tỏa toàn cầu. Chẳng hạn, nếu các đại học Việt Nam có thể thu hút các nhà khoa học đầu ngành, trong đó có các trưởng ban biên tập những tạp chí uy tín, thì năng lực nghiên cứu và xuất bản của Việt Nam sẽ tăng lên nhiều. Khi đó, mục tiêu xây dựng hệ thống đại học Việt Nam có sức cạnh tranh quốc tế cao, có thể thu hút hàng chục ngàn sinh viên quốc tế đến học sẽ trở thành hiện thực.
Câu chuyện cầu thủ nhập tịch Nguyễn Xuân Son trong những trận thắng của Việt Nam ở giải ASEAN Cup 2024 cũng là một ví dụ sinh động. Chọn người hay cho đúng việc cần sẽ đem lại những giá trị thật ý nghĩa; nó giúp người Việt Nam ý thức trách nhiệm hơn, yêu nước hơn và cùng nhau nỗ lực học hỏi mạnh mẽ hơn để nâng vị thế của đất nước.
Giáo sư từng nói đến một trong những điểm đáng lo là làm sao “xây dựng được bộ máy công quyền ưu tú để hiện thực hóa tất cả chiến lược, kế hoạch, tâm huyết, giúp các địa phương, doanh nghiệp bật lên”, coi bộ máy đó là “động lực chiến lược”. Chúng ta đang thực hiện một nhiệm vụ rất lớn, rất khó, đó là tinh giản bộ máy sao cho tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Quan sát những chuyển động của câu chuyện này, ông có chia sẻ gì?
Sức mạnh của bộ máy công quyền là tổng hòa của 3 nguồn: tổng lực, động lực khuyến khích và năng lực. Trong khi năng lực và động lực khuyến khích hết sức quan trọng, yếu tố tổng lực đóng vai trò nền tảng, quyết định sự thành bại. Vì vậy, tinh gọn bộ máy cần hết sức coi trọng tăng cường khả năng tổng lực bên cạnh các cố gắng nâng cao năng lực và động lực khuyến khích. Kinh nghiệm của Singapore trong xây dựng chính phủ tổng lực cho thấy, cần ưu tiên 2 trọng tâm: thiết kế nền tảng và thành lập các cục tác nghiệp chịu trách nhiệm thực thi chính sách.
Theo kinh nghiệm các nước trên thế giới, cần làm gì để có “đội ngũ cán bộ giỏi, bộ máy công quyền ưu tú”, thưa Giáo sư? Và trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm trên thế giới?
Thiết kế nền tảng chú trọng nền tảng pháp lý minh bạch, khúc triết và cấu trúc bộ máy được phân định rõ chức năng với khả năng phối thuộc cao. Singapore tiến hành cải cách cấu trúc bộ máy này vào năm 1980 khi nhận thấy sự chồng chéo và thiếu tính tổng lực, làm giảm hiệu năng và hiệu lực của bộ máy, đặc biệt khi các bài toán phát triển ngày càng phức tạp và thách thức.
Thiết lập các cục tác nghiệp (statutory board) trong bộ máy công quyền đem lại nhiều lợi ích quan trọng.
Thứ nhất, nó tách chức năng quản lý và thực thi chính sách ra khỏi bộ, ngành để các bộ ngành tập trung vào nhiệm vụ quản trị, giám sát.
Thứ hai, các cục tác nghiệp hoạt động như doanh nghiệp với ý thức tạo nguồn thu trong thực thi chính sách. Chi ngân sách cho các cục tác nghiệp chỉ là nguồn bổ sung. Do đó, nó không chỉ giảm chi ngân sách, mà còn giúp giám sát và thúc đẩy các cục tác nghiệp hoạt động hiệu quả, sáng tạo, coi người dân là trung tâm phục vụ.
Thứ ba, mỗi cục tác nghiệp có hội đồng quản trị riêng với báo cáo hàng năm chi tiết về cả chiến lược và tài chính. Việc này giúp tăng sự minh bạch, trách nhiệm giải trình và nỗ lực đổi mới không ngừng.
Thứ tư, các cục tác nghiệp có quyền hạn linh hoạt trong tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chuyên gia quốc tế với khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao đông. Cục tác nghiệp cũng có thể vay vốn cho các hoạt động đầu tư theo chức năng, nhiệm vụ.
Bên cạnh “đội ngũ cán bộ giỏi, bộ máy công quyền ưu tú”, chúng ta cũng có một mạng lưới những trí thức người Việt tài năng đang sinh sống, làm việc trên khắp thế giới. Rất nhiều người trong số đó luôn đau đáu một lòng hướng về quê hương, về Tổ quốc. Chúng ta cần làm gì để phát huy được sức mạnh tinh thần và trí tuệ của đội ngũ này đối với sự nghiệp phát triển đất nước, thưa Giáo sư?
Với số dân hơn 100 triệu người và hơn 5 triệu người sống ở nước ngoài, phần lớn ở các quốc gia tiên tiến, Việt Nam có đội ngũ chuyên gia tiềm năng rất lớn và giá trị. Tuy nhiên, việc tập hợp và sử dụng không đơn giản. Theo tôi, Đảng và Chính phủ nên chú ý 3 điểm quan trọng sau khi mời gọi các chuyên gia trí thức ở nước ngoài về đóng góp cho đất nước.
Thứ nhất, hết sức thực tâm, căn cơ và chiến lược trong từng sáng kiến cụ thể, tránh phong trào, hình thức, mang tính động viên. Làm sao để người về nước thấy giá trị đặc biệt mà mình có thể đem lại cho Tổ quốc.
Thứ hai, hai nội dung đột phá bổ sung như đã nêu ở trên đặc biệt quan trọng. “Tư duy thời đại và tầm nhìn về tương lai” có sức thôi thúc mạnh mẽ mọi người trở về giúp nước. Tôi có ấn tượng với nhiều sinh viên Trung Quốc muốn trở về vì họ thấy được góp sức đưa đất nước họ đến hùng cường, một trọng trách và vinh dự mà không phải thế hệ nào cũng may mắn có được.
Đột phá theo hướng “hội nhập quốc tế” cũng giúp các chuyên gia từ nước ngoài về dễ hòa nhập và phát huy hơn. Chẳng hạn, nếu TP.HCM - Bình Dương, Hà Nội - Hải Phòng, Huế - Đà Nẵng thiết lập các khu thương mại tự do, mà ở đó, các đại học, viện nghiên cứu và cac doanh nghiệp, các tổ chức được tổ chức và quản lý theo thông lệ hay nhất của thế giới, thì khi đó, không chỉ chuyên gia Việt Nam, mà cả các tài năng hàng đầu của thế giới cũng mong muốn về tụ tài.
Thứ ba, mọi nỗ lực nên bắt đầu từ trân trọng và khai thác người tài sẵn có trong nước và tập trung vào giải quyết những bài toán hết sức cụ thể, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Chúng ta cần tìm người tài và đầu tư vào lĩnh vực có khả năng tạo nên giá trị cộng hưởng cao nhất. Chẳng hạn, đầu tư vào tiếp thị hoặc công nghệ cho ngành nông nghiệp để giá trị xuất khẩu hàng năm (vào khoảng 50-60 tỷ USD) tăng thêm 5%, sẽ mang lại 2 - 3 tỷ USD.
Thưa Giáo sư, năm 2024 cũng đánh dấu những bước chuyển rất lớn, những quyết sách rất nhanh, táo bạo, như việc “chốt” chủ trương xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, một trong những dự án lớn nhất từ trước tới nay của Việt Nam; hay quyết tâm hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc, rồi về đích trước hạn đường dây 500 kV mạch 3, đồng thời quyết định khởi động lại dự án điện hạt nhân… Những chuyển động đó cho thấy điều gì, thưa ông?
Tôi đặc biệt ấn tượng với quyết tâm rất cao của Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng trong đầu tư vào các dự án hạ tầng với quy mô lớn và nhịp độ nhanh. Tôi rất mong chúng ta có những cải cách đột phá có tính thể chế trong lĩnh vực trọng yếu này để việc tổ chức thực hiện, các nỗ lực quyết liệt sẽ mang lại những kết quả có ý nghĩa và to lớn vượt bậc. Đặc biệt là các dự án tàu điện ngầm ở Hà Nội, TP.HCM và các dự án điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi.
Với những chuyển biến trong nước và động thái kinh tế - chính trị - xã hội trên thế giới trong năm qua, Giáo sư đánh giá thế nào về cơ hội thu hút đầu tư của Việt Nam trong năm 2025 và thời gian tới? Rộng hơn, Giáo sư có thể đánh giá về cơ hội phát triển, vươn mình của Việt Nam trong những năm tới?
Một trong những đặc trưng rất lớn của cục diện thế giới được các chuyên gia gọi tắt là “VUCA”. Nó chỉ tính biến động khôn lường và phức tạp, khó hiểu mà các quốc gia đều phải sẵn sàng đón nhận. Biến động ở Mỹ, châu Âu, thậm chí Hàn Quốc và các đại dịch như Covid-19 cho thấy sự cấp bách trong mở rộng tầm nhìn với tư duy thời đại và nâng cao khả năng ứng đáp với mọi thách thức, kể cả những thách thức mà trước đây ít ai có thể hình dung được.
Với Việt Nam, thách thức và cơ hội đều cực lớn, nhưng đan xen hết sức phức tạp. Trong bối cảnh này, ứng đáp hiệu quả và chủ động với mỗi thách thức xuất hiện là cách phát triển có nền tảng vững chắc nhất. Nghĩa là, thách thức cần xem trọng hàng đầu. Cơ hội chỉ là công cụ để hỗ trợ vượt qua thách thức. Ba kho báu thần diệu mà mọi tổ chức và doanh nghiệp cần khai thác triệt để trong nỗ lực này là: tri thức nhân loại; tiến bộ công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo AI; và sức mạnh cộng hưởng từ hợp tác gắn kết sâu (1+1=11).