Vì sao không thể dự báo sạt lở đất?
Các chuyên gia cho biết, điều kiện khoa học kỹ thuật hiện nay của Việt Nam cũng như thế giới chưa thể dự báo sạt lở đất, mà chỉ có thể cảnh báo trên từng vùng. Trong khi đó, các hoạt động phá rừng, xây dựng công trình vùng thượng nguồn làm gia tăng nguy cơ sạt lở đất đá.
Không thể cảnh báo chi tiết đến từng điểm
Theo TS Trịnh Xuân Hòa, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, chưa thể dự báo sạt lở đất đá. Việc cảnh báo được thực hiện trước từ 3-6 giờ trên diện chứ không thể cảnh báo điểm, không thể biết tại ngọn đồi nào, tuyến đường nào, khu vực nào vào thời điểm nào có thể sạt lở đất đá.
Tổng cục Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho biết, lũ quét, sạt lở đất xuất hiện rất phức tạp, xảy ra bất ngờ khi hội tụ đủ yếu tố bất lợi về mưa, điều kiện địa hình, địa mạo, địa chất và lớp phủ. Bên cạnh nguyên nhân mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn hoặc kéo dài nhiều ngày, lũ quét, sạt lở đất còn phụ thuộc vào địa hình, độ dốc lưu vực và độ dốc sông suối, độ ổn định của lớp đất mặt yếu, độ che phủ của thảm thực vật thấp.
Để dự báo được lũ quét, sạt lở đất tại một địa điểm, ngoài việc xác định được lượng mưa đã xuất hiện và dự báo sẽ xảy ra chi tiết theo không gian, thời gian trên khu vực đó, cần xác định được các thông tin nền về địa hình, cấu trúc địa chất, lớp vỏ phong hóa, đặc điểm thảm phủ, độ ẩm, mức độ bão hòa, ngưỡng mưa sinh lũ quét và sạt lở đất, các hoạt động kinh tế-xã hội, dân sinh như giao thông, khai thác mỏ, xây dựng, phân bố dân cư... Các thông tin này phải đảm bảo được tính cập nhật liên tục theo thời gian và chi tiết đến từng địa điểm.
Trong khi đó, hiện nay, công nghệ chưa cho phép dự báo chính xác định lượng mưa. Thông tin số liệu đo đạc, điều tra, khảo sát thực địa của các vùng có nguy cơ phát sinh lũ quét, sạt lở đất thường không có. Thông tin về thảm phủ, cấu trúc địa chất, lớp vỏ phong hóa, mức độ bão hòa trong đất không có đủ độ chi tiết và không được cập nhật thực tế. Sự tác động của con người hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phá rừng, khai thác khoáng sản chưa được thống kê, nghiên cứu đầy đủ.
Tổng cục Khí tượng Thủy văn cho biết, việc khai thác lưu vực, hoạt động của con người cũng làm giảm tỷ lệ rừng, xây dựng hồ chứa, cắt xẻ, san gạt sườn đồi, núi làm mất độ giữ đất, giữ nước của rễ cây, mất ổn định sườn dốc, làm yếu độ liên kết đất đá và tăng khả năng xói mòn, sạt lở.
La Nina tác động, mưa có thể dồn dập cả tháng 11
Chỉ trong 20 ngày, miền Trung hứng chịu tới 4 cơn bão, áp thấp nhiệt đới khiến mưa chồng mưa, lũ chồng lũ. Nhiều dòng sông xuất hiện lũ lớn nhất trong lịch sử như sông Kiến Giang của tỉnh Quảng Bình, sông Thạch Hãn, sông Hiếu của tỉnh Quảng Trị.
Theo ông Hoàng Phúc Lâm, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của hiện tượng La Nina, dự báo sẽ còn kéo dài trong những tháng cuối năm 2020 và đầu năm 2021. Thống kê cho thấy, những năm có La Nina, số cơn bão trên Biển Đông ảnh hưởng đến nước ta nhiều hơn bình thường khoảng 28%, tập trung vào nửa cuối mùa bão (tháng 9, 10, 11) ở các tỉnh Trung bộ và Nam bộ. Các đợt La Nina thường gây ra lượng mưa vượt trung bình ở các tỉnh ven biển Trung bộ và Tây Nam bộ.
Hôm nay (20/10), ngoài khơi phía Đông miền Trung Philippines có một áp thấp nhiệt đới đang hoạt động, dự báo sẽ mạnh lên thành bão và đi vào Biển Đông trong ngày mai (21/10).
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cũng nhận định, trong tháng 11, miền Trung vẫn có thể xuất hiện các đợt mưa lớn dồn dập, đặc biệt khu vực Trung và Nam Trung bộ.
Dự báo từ nay cho tới hết năm 2020, trên khu vực Biển Đông còn có khả năng xuất hiện khoảng 4-6 cơn bão, trong đó có khoảng 2-4 cơn ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta. Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho biết, từ nay đến cuối tháng 10, tình hình mưa bão ở miền Trung vẫn diễn biến phức tạp do các yếu tố gây mưa lớn vẫn duy trì.