Vì sao em bé cần được tiếp xúc da kề da với mẹ?
Khi một em bé chào đời, em cảm thấy an toàn và được che chở khi tiếp xúc với người chăm sóc.
Mối ràng buộc gắn bó
Ta học được các chiều kích ở đây, bây giờ và gần gũi ra sao? Khi một em bé chào đời, em cảm thấy an toàn và che chở khi tiếp xúc với người chăm sóc. Tôi sẽ gọi người chăm sóc là “bà mẹ” trong phần này, song không có lý do gì mà người đó không thể là một người cha. Trong quá trình gắn bó về mặt thân thể với mẹ, tiếp xúc da kề da, em bé được xoa dịu và vui vẻ, và em có đủ khả năng tâm trí để biết điểm khác biệt giữa việc tiếp xúc thân thể và không tiếp xúc thân thể.
Tại thời điểm này, em bé không nhất thiết phải biết điểm khác biệt giữa em và người mà em gắn bó về mặt thân thể theo đúng nghĩa đen, song có một bản năng bẩm sinh là khóc khi muốn tiếp xúc. Em học được rằng nếu như đang không tiếp xúc thì tiếng khóc sẽ đưa mẹ em tiếp xúc trở lại với hiệu quả xoa dịu tuyệt vời.

Mẹ và em bé có một sự gắn bó bản năng nhờ vận hành đặc biệt của não bộ. Ảnh: Freepik.
Não của em phát triển hơn một chút để rồi bây giờ em có cảm giác về mối ràng buộc gắn bó ngay cả khi có khoảng cách (chiều không gian). Nếu em nhìn thấy Mẹ trong phòng, hoặc kể cả khi chỉ nghe thấy Mẹ ở phòng bên, thì có cảm giác rằng nhu cầu gắn bó vẫn được đáp ứng. Và đây ta có thực tế ảo đầu tiên, biểu trưng tâm trí (mental representation) về người mẹ, dựa trên các tín hiệu thị giác hoặc thính giác chứ không chỉ xúc giác.
Đây là mối ràng buộc gắn bó bắc cầu xuyên không gian, giống như một sợi dây buộc vô hình. Mẹ thật vỗ về từ bên kia phòng và em có thể làm bất cứ điều gì em muốn vì em cảm thấy an toàn.
Kế tiếp, em học tới chiều thời gian. Chừng đâu trong năm đầu tiên, em bắt đầu khóc khi Mẹ đi đâu mất dạng. Dù hầu hết mọi người cho rằng điều này là do phát triển mối ràng buộc cảm xúc với Mẹ, nhưng thực tế còn nhiều hơn thế. Não em đã phát triển theo một cách chuyên biệt trước khi tiếng khóc không nguôi đó xảy ra lúc Mẹ rời đi.
Điều em cần là một trí nhớ làm việc ((working memory): Là lượng thông tin nhỏ có thể được lưu giữ trong tâm trí và dùng để thực thi các nhiệm vụ nhận thức. (ND)). Khả năng trí nhớ làm việc của em bé bắt đầu vận hành nhờ các kết nối thần kinh mới giữa các bộ phận của não.
Bây giờ em có thể ghi nhớ chuyện đã xảy ra từ 30 đến 60 giây trước (Mẹ đã ở đây) và chuyện đang xảy ra bây giờ (Mẹ không có ở đây) và liên hệ cả hai. Không may là em vẫn chưa thể nắm bắt được nỗi bất định của chuyện mẹ em vắng mặt có thể có ý nghĩa gì. Vì vậy, dù não em đã đủ thành thục để nhận ra rằng hiện tại là một biến đổi của quá khứ, nhưng lựa chọn duy nhất của em chỉ là khóc lên, với hy vọng Mẹ sẽ nghe thấy và quay lại.
Sau rốt, từ trải nghiệm có được em phát hiện ra rằng dù Mẹ có khi đi mất nhưng Mẹ vẫn luôn quay trở lại. Trẻ chập chững biết rằng mình yên tâm xem xong một tập Phố Vừng (Sesame Street), hoặc có lẽ là hai tập Phố Vừng luôn, và chắc chắn rồi, Mẹ sẽ quay trở lại và mọi chuyện trên thế giới đều tốt đẹp.
Giờ đây Mẹ vẫn hiện diện trong thực tế ảo nơi tâm trí đứa trẻ, ngay cả khi Mẹ khuất khỏi tầm mắt và không thể nghe thấy. Nhu cầu gắn bó về tình thương và che chở không quá áp đảo, vì đứa trẻ dựa vào kiến thức êm ái rằng Mẹ sẽ quay trở lại. Do đó, mối ràng buộc gắn bó dần buộc chặt cả hai mẹ con theo thời gian.