Vì sao Bộ Công Thương đề xuất lùi thời gian phát triển nguồn điện gió ngoài khơi?

Nguồn điện gió ngoài khơi trong giai đoạn đến 2030 vẫn là nguồn điện có chi phí đầu tư xây dựng cao. Do đó, điều chỉnh Quy hoạch điện VIII dự kiến phát triển nguồn điện này sau năm 2030, đạt khoảng 17.000 MW vào năm 2035, theo Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Quy hoạch điện VIII đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 với nhiều điểm mới so với các quy hoạch trước đây, như “mang tính động và mở”, phát triển tối ưu các loại nguồn điện với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo Cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, đảm bảo cung cấp đủ điện cho nhu cầu phát triển kinh tế với mức tăng trưởng GDP theo Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Báo cáo tại cuộc họp Hội đồng thẩm định Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII chiều 19/2, đại diện Bộ Công Thương cho biết một số kết quả tính toán Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII. Theo đó, tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu, nguồn đồng phát và nhiệt điện rủi ro) là 183.291-236.363 MW, tăng thêm khoảng 27.747-80.819 MW so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt.

 Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tại cuộc họp ngày 19/2. Ảnh: Bộ Công Thương

Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tại cuộc họp ngày 19/2. Ảnh: Bộ Công Thương

Cụ thể: Nhiệt điện than 31.055 MW (chiếm 16,9-13,1%), giữ nguyên so với Quy hoạch điện VIII (công suất tăng thêm do cập nhật gam máy thực tế của các nhà máy điện); Nhiệt điện khí trong nước 10.861 MW (chiếm 5,9-4,6%), giữ nguyên so với Quy hoạch điện VIII; Nhiệt điện LNG 8.824 MW (chiếm 4,8-3,7 %), giảm so với Quy hoạch điện VIII 13.576 MW do đánh giá các nguồn điện chậm tiến độ; thủy điện 33.294-34.667 MW (chiếm 18,2-14,7%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII 4.560-5.275 MW;

Đáng chú ý, tổng công suất điện gió trên bờ 27.791-28.058 MW (chiếm 13,2-14,4%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 3.949-5.321 MW và điện mặt trời (gồm ĐMT tập trung và ĐMT áp mái) 46.459-73.416 MW (chiếm 25,3-31,1%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 25.867-52.825 MW; điện sinh khối, điện sản xuất từ rác và điện địa nhiệt 2.979-4.881 MW (chiếm 1,6-2,1%), tăng lên so với từ 709-2.611 MW;

Về nguồn lưu trữ 12.394 - 22.271 MW (chiếm 6,8-9,4 %), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 9.694-19.571 MW; nguồn điện linh hoạt 2.000-3.000 MW (chiếm 1,1-1,3%), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 1.700-2.700 MW;

Về nhập khẩu điện chiếm khoảng 9.360 MW (chiếm 5,1-4,0% tổng công suất các nhà máy điện), tăng lên so với Quy hoạch điện VIII từ 4.360 MW.

Đáng chú ý, trong Đề án điều chỉnh nguồn điện hạt nhân đạt khoảng từ 6.000-6.400 MW, vận hành giai đoạn 2030-2035. Cùng với đó, xuất khẩu điện dự kiến đạt khoảng 5.000 MW đến 10.000 MW trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.

Về chương trình phát triển nguồn điện trong Quy hoạch điện VIII được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các chủ trương, định hướng, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng mục tiêu đề ra; kế thừa tối đa các nguồn điện đã được phê duyệt trong Quy hoạch điện VIII; tăng cường nhập khẩu điện và hạn chế phát triển thêm lưới điện truyền tải liên miền.

Tổng công suất nguồn điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu, nguồn đồng phát và nhiệt điện rủi ro) là 183.291-236.363 MW, tăng thêm khoảng 27.747-80.819 MW so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt, trong đó chủ yếu là tăng thêm thủy điện, nguồn năng lượng tái tạo, pin lưu trữ.

Về nhiệt điện than: Đến năm 2030, tổng công suất nhiệt điện than không thay đổi so với Quy hoạch điện VIII được duyệt (đạt 31.055 MW), nhưng tăng lên 928 MW so với Quy hoạch điện VIII do cập nhật gam công suất thực tế của các tổ máy nhiệt điện.

Về nhiệt điện sử dụng khí nội: Tổng công suất đến năm 2030 đạt 10.861 MW, không thay đổi so với Quy hoạch điện VIII.

Về điện khí LNG: Quy hoạch điện VIII điều chỉnh kế thừa tối đa các dự án đã được phê duyệt trong Quy hoạch điện VIII và đánh giá thêm tình hình triển khai các dự án để đề xuất giải pháp thay thế một số dự án chậm tiến độ sang sau 2030, tổng công suất đến năm 2030 đạt 8.824 MW.

Về thủy điện: Đến năm 2030, dự kiến phát triển hết tiềm năng của đất nước, trong đó tổng công suất thủy điện vừa và lớn đạt khoảng 21.100 MW (gồm cả thủy điện mở rộng), tăng 1.600 MW; thủy điện nhỏ có tổng công suất đạt 13.500 MW, tăng 5.400 MW so với Quy hoạch điện VIII được duyệt.

Về điện gió trên bờ và gần bờ: Đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện gió trên bờ và gần bờ đạt khoảng 27.791-34.667 MW, tăng khoảng 3.949-5.321 MW so với Quy hoạch điện VIII được duyệt.

Về điện gió ngoài khơi: Nguồn điện gió ngoài khơi trong giai đoạn đến 2030 vẫn là nguồn điện có chi phí đầu tư xây dựng cao. Quy hoạch điện VIII dự kiến phát triển khoảng 6.000 MW nguồn điện này đến năm 2030. Tuy nhiên, Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII dự kiến phát triển nguồn điện này sau năm 2030, đạt khoảng 17.000 MW vào năm 2035.

Về điện mặt trời: Đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện mặt trời tập trung (bao gồm điện mặt trời mặt đất, mặt nước) và điện mặt trời mái nhà đạt khoảng 46.459-73.416 MW, tăng khoảng 25.867-52.825 MW so với Quy hoạch điện VIII được duyệt. Nguồn điện mặt trời có ưu điểm triển khai nhanh, đáp ứng kịp thời khả năng cung ứng điện trong những năm 2026-2027.

Về điện hạt nhân: Nguồn điện hạt nhân trong tương lai vẫn có chi phí xây dựng cao do các yêu cầu đảm bảo an toàn hạt nhân khắt khe. Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, dự kiến Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 với tổng công suất đạt 6.000-6.400 MW sẽ đưa vào vận hành giai đoạn 2030-2035, giai đoạn đến năm 2050 hệ thống cần bổ sung khoảng 4.500-5.000 MW điện hạt nhân tại miền Bắc và khoảng 3.000 MW tại miền Trung (chủ yếu là điện hạt nhân dạng mô đun nhỏ SMR) để cung cấp nguồn điện chạy nền cho hệ thống. Nguồn điện hạt nhân sẽ tiếp tục được nghiên cứu các địa điểm tiềm năng để phát triển trong các quy hoạch sau Quy hoạch điện VIII.

Về chương trình phát triển lưới điện được xây dựng trên cơ sở phương án nguồn điện tối ưu được lựa chọn. Hệ thống lưới điện truyền tải được xây dựng đảm bảo đáp ứng yêu cầu hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định; có khả năng tích hợp tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo cao; khắc phục các tình trạng quá tải, nghẽn mạch, chất lượng điện áp thấp và một số vấn đề kỹ thuật vận hành lưới điện khác.

Về giải pháp vốn đầu tư, theo đó, tổng vốn đầu tư cho giai đoạn 2026-2030 khoảng 136-172 tỷ USD, trong đó nguồn điện khoảng 118-148 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 18-24 tỷ USD.

Tổng vốn đầu tư phát triển điện lực vẫn rất lớn. Do đó, Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đã đề xuất các giải pháp tạo nguồn vốn và huy động vốn đầu tư phát triển ngành điện, đặc biệt là đa dạng hóa các nguồn vốn, các hình thức huy động vốn (vốn tín dụng ngân hàng, vốn viện trợ, thị trường chứng khoán, ...), thu hút có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành điện” – Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Về cơ chế điều hành thực hiện quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng để đảm bảo quy hoạch không bị phá vỡ trên thực tế, bảo đảm cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, Bộ Công Thương kiến nghị một số cơ chế để triển khai Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII một cách hiệu quả, như:

Thường xuyên rà soát tiến độ các dự án nguồn điện (định kỳ 6 tháng 1 lần) để đề xuất điều chỉnh dự án, thay thế dự án bị chậm bằng dự án khác hoặc xem xét thu hồi dự án để giao cho nhà đầu tư mới có năng lực triển khai.

Xây dựng và áp dụng thiết chế về tính kỷ luật và tuân thủ việc thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đối với các Chủ đầu tư, các Bộ, ngành và các địa phương.

Xây dựng các cơ chế đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo và lưu trữ điện năng, cơ chế khuyến khích đầu tư các nguồn điện mái nhà, cơ chế giá 2 thành phần (giá công suất và giá điện năng).

Minh Thành

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/vi-sao-bo-cong-thuong-de-xuat-lui-thoi-gian-phat-trien-nguon-dien-gio-ngoai-khoi-96716.html
Zalo