Vai trò của chẩn đoán phân tử trong theo dõi điều trị HIV

HIV có khả năng sinh sôi với số lượng lớn trong tế bào người rất nhanh, nên có thể dẫn đến tỷ lệ đột biến di truyền cao. Các xét nghiệm phân tử đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát nhiễm HIV.

Các xét nghiệm này cung cấp thông tin chi tiết về mức độ kiểm soát virus và phản ứng miễn dịch của cá nhân đối với liệu pháp kháng virus (ART).

Các xét nghiệm thường được sử dụng để theo dõi HIV là:

Xét nghiệm tải lượng virus HIV
Xét nghiệm kháng thuốc HIV

Chẩn đoán phân tử giúp theo dõi tiến triển của HIV và hiệu quả điều trị.

Chẩn đoán phân tử giúp theo dõi tiến triển của HIV và hiệu quả điều trị.

Xét nghiệm HIV trong giai đoạn cửa sổ

Kháng thể có thể mất một thời gian để tạo ra trong cơ thể, vì đòi hỏi phản ứng miễn dịch của vật chủ, để tạo ra kháng thể chống HIV sau khi tiếp xúc với kháng nguyên HIV.

Các xét nghiệm huyết thanh, chẳng hạn như xét nghiệm dựa trên kháng thể phát hiện kháng thể chống lại HIV trong cơ thể, có thể gây hại trong giai đoạn cửa sổ ban đầu này. Do đó, các xét nghiệm dựa trên kháng thể truyền thống, có thể không phát hiện được nhiễm HIV trong giai đoạn đầu (giai đoạn cửa sổ).

Ngược lại, các xét nghiệm phân tử phát hiện RNA hoặc DNA tiền virus, có thể phát hiện HIV sớm hơn nhiều, ngay cả trong giai đoạn cửa sổ, sau 48 giờ đến 7 ngày kể từ khi virus xâm nhập vào cơ thể người.

Xét nghiệm RNA HIV

Xét nghiệm RNA HIV thường có thể phát hiện được trong vòng vài ngày đến vài tuần, thậm chí trước khi kháng thể xuất hiện trong cơ thể bệnh nhân, do đó cho phép chẩn đoán và bắt đầu điều trị sớm hơn.

Theo dõi phản ứng của HIV với liệu pháp điều trị

Xét nghiệm tải lượng virus HIV (xét nghiệm PCR định lượng HIV) là xét nghiệm phân tử phát hiện lượng bản sao HIV RNA trên một ml huyết tương máu của bệnh nhân. Xét nghiệm này giúp xác định cơ sở tải lượng virus ban đầu của các bản sao HIV RNA, theo dõi trước khi bắt đầu điều trị và tiến triển trong quá trình điều trị.

Theo dõi tiến triển của bệnh

Tải lượng virus HIV cao làm phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, giảm khả năng miễn dịch... có liên quan đến tiến triển bệnh nhanh hơn và tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội do các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, nấm hoặc ký sinh trùng khác...

Do đó, xét nghiệm này giúp theo dõi tiến triển của bệnh và hiệu quả của liệu pháp kháng virus. Trong những tình huống lý tưởng, thuốc kháng virus làm giảm tải lượng virus xuống mức không phát hiện được, được gọi là ‘Không phát hiện = Không lây truyền’ hay U=U.

Phát hiện thất bại điều trị

Nếu tải lượng virus không giảm đáng kể, điều này có thể cho thấy thất bại điều trị, xuất hiện tình trạng kháng thuốc kháng virus hoặc không tuân thủ phác đồ điều trị.

Xét nghiệm kháng thuốc HIV

HIV được biết là nhân bản với số lượng lớn trong tế bào người rất nhanh, nên dẫn đến tỷ lệ đột biến cao trong di truyền. Những đột biến như vậy, có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc kháng virus được sử dụng để điều trị HIV, dẫn đến thất bại trong điều trị.

Các kỹ thuật chẩn đoán phân tử như xét nghiệm kiểu gen HIV hoặc xét nghiệm kháng thuốc kiểu gen được sử dụng để xác định các đột biến trong bộ gen HIV, gây ra tình trạng kháng thuốc riêng lẻ được sử dụng trong điều trị HIV.

Mời bạn đọc xem tiếp video:

Cảnh báo nhiễm HIV trong nhóm thanh thiếu niên | SKĐS

Thu Anh

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/vai-tro-cua-chan-doan-phan-tu-trong-theo-doi-dieu-tri-hiv-169241202111156913.htm
Zalo