Tứ Xuyên ký sự (kỳ 2): Viếng Miếu Vũ Hầu, tản mạn về đạo quân - thần Thục Hán

Gần bốn mươi năm trước còn là sinh viên, đọc bài thơ 'Vũ Hầu Miếu' của thánh thi Đỗ Phủ sống thời nhà Đường viết ở đất Tứ Xuyên sau loạn An Lộc Sơn, đã được nghe nhắc tên Miếu Vũ Hầu và có sự lưu lại trong trí nhớ. Vậy mà đến tận hôm nay, kẻ hậu sinh mê chuyện Tam Quốc mới được đặt bàn chân lên đất Thục Hán xưa để một lần cúi đầu trước các bậc anh hùng cái thế. Ngoảnh lại, thời đại ấy in sâu vào lịch sử Trung Hoa nhưng cũng đã trôi vào quá vãng từ hơn mười tám thế kỷ trước…

Kỳ 2: VIẾNG MIẾU VŨ HẦU, TẢN MẠN VỀ ĐẠO QUÂN - THẦN THỤC HÁN

Du khách lũ lượt viếng Miếu Vũ Hầu

Du khách lũ lượt viếng Miếu Vũ Hầu

Sau những ngày loạn lạc, lê gót trở về Tứ Xuyên trong đói nghèo rách nát, thánh thi Đỗ Phủ đã ghé đến miếu này và cảm tác rằng: “Di miếu đan thanh lạc/ Không sơn thảo mộc trường/ Do văn từ Hậu chủ/ Bất phụ ngọa Nam Dương”. Bài thơ dịch lên nghe buồn tê tái: “Miếu xưa nét vẽ xanh đỏ đã phai lạt/ Núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm/ Còn nghe vẳng biểu xuất sư từ biệt Hậu Chủ/ Chẳng còn dịp trở về Nam Dương nằm khểnh”.

Rồi thời nhà Trần bên mình, trong bài “Thuật hoài”, tướng quân Phạm Ngũ Lão cũng nhắc đến cái tên Vũ Hầu: “Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu/ Tam quân tì hổ khí thôn ngưu/ Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông đã mấy thu/ Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu/ Nam nhi chưa trả xong nợ công danh/ Thật lấy làm thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu).

Vậy Vũ Hầu là ai, công danh sự nghiệp thế nào mà người Trung Hoa xưa dựng miếu thờ khắp nước và thi tướng họ Phạm dưới trướng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cũng đã lấy làm thẹn khi nghe người đời kể chuyện về ông?

Về sau, cứ lúc nào rảnh rang lại chúi mũi vào “Tam Quốc diễn nghĩa” của tiểu thuyết gia La Quán Trung, một trong “tứ đại danh tác” trong văn học cổ điển Trung Quốc. Rồi cũng đã nhẩn nha với “Tam quốc chí” của sử gia Trần Thọ, Bùi Tùng Chi chú giải, mới được tỏ tường thêm đôi điều. Thì ra, Vũ Hầu hay Vũ Trung Hầu là tước do Thục đế Lưu Bị phong cho Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, hiệu Ngọa Long, người đất Dương Đô thuộc tỉnh Sơn Đông.

Trong thời ly loạn, Khổng Minh tị nạn về đất Kinh Châu, qua lời tiến cử của Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy, Lưu Hoàng Thúc lúc chưa lên ngôi đã hạ mình “tam cố thảo lư” (ba lần đến lều cỏ) mời ông ra làm quân sư dưới trướng của mình. Cũng từ đó, nhờ mưu lược hơn người, Khổng Minh tiên sinh đã góp công lớn giúp Lưu Bị khôi phục cơ đồ nhà Hán. Khi Lưu Bị mất, ông cũng đã hết lòng phò giúp Hậu chủ Lưu Thiện, con của Lưu Bị.

Quân sư Gia Cát Khổng Minh không rạp mình trên lưng ngựa tung hoành ngang dọc, vung đao múa kiếm, nhuộm máu sa trường như “ngũ hổ tướng” Quan Vân Trường, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu. Tiên sinh chỉ ngồi trên xe bánh gỗ, phe phẩy quạt lông vũ mà khiển tướng, điều binh làm nên những trận lớn như gò Bác Vọng, thung lũng Tân Dã hay dùng kế “thuyền cỏ mượn tên”, “mượn gió đông nam” khiến cho đại đô đốc Chu Du của Đông Ngô cũng phải cúi đầu bái phục. Chính từ sự nể phục tài trí của Khổng Minh mà Đông Ngô đã liên minh với nhà Thục Hán, cùng hợp quân đại thắng Tào Ngụy trong trận Xích Bích lừng danh thiên cổ.

Du khách tham quan hành lang thờ bá quan văn võ triều Thục Hán

Du khách tham quan hành lang thờ bá quan văn võ triều Thục Hán

Và hôm nay, giữa đất Thành Đô - Tứ Xuyên, kinh đô của nhà Thục Hán trong bốn mươi hai năm, từ năm 221 đến năm 263, tôi đã được viếng Miếu Vũ Hầu và có dịp “tái ngộ” với Hoàng đế Lưu Bị, Thừa tướng Gia Cát Lượng và các vị bá quan văn võ đã từng được nghe danh trong cổ sử. Xưa, họ tung hoàng dọc ngang chống lại Tào Ngụy, xử trí Đông Ngô, khôi phục giang sơn nhà Hán kéo được bốn mươi năm có lẻ. Nay, họ ngồi đó an nhiên trên bệ thờ, mỗi ngày lại đón chờ hậu nhân thăm viếng.

Theo chân dòng du khách đến đây, tôi thấy rất nhiều người dâng hoa để tỏ lòng tôn kính; dâng Lưu Huyền Đức thì ít, Khổng Minh thì nhiều. Những người có chút chữ nghĩa thì ngắm từng bức tượng trên bệ thờ mà luận anh hùng, chia sẻ quan điểm với bạn bè cùng đi. Còn tôi, tôi đến từ nơi xa xôi, được viếng Vũ Hầu Miếu là một cuộc trải nghiệm thú vị hiếm có trong đời…

Du khách vào tham quan Miếu Vũ Hầu

Du khách vào tham quan Miếu Vũ Hầu

Buổi sáng, đất trời Tứ Xuyên phủ đầy mưa lạnh nhưng đoàn người dằng dặc, trong đó có rất nhiều bạn trẻ đến từ khắp mọi miền Trung Quốc, không kể gì ướt át, nối đuôi nhau lũ lượt viếng Miếu Vũ Hầu. Khu di tích đặc biệt này nằm ở khu trung tâm của Tam Quốc thánh địa - công trình bảo tồn và tôn vinh những nhân vật lịch sử thời Tam Quốc.

Một bạn đồng hành của tôi cứ thắc mắc mãi, là tại sao miếu thờ Lưu Bị và cả triều Thục Hán mà chỉ gọi tên là Miếu Vũ Hầu - tước hiệu của Gia Cát Lượng. Ừ nhỉ, kể cũng lạ, đền thờ Khổng Minh được đặt khiêm nhường phía sau đền thờ Lưu - Quan - Trương và con cái của họ? Quả thật, câu hỏi không dễ giải đáp. Tuy nhiên, lịch sử và dân gian vốn rất công bằng, hậu nhân tự biết là quân và thần thời ấy ai đáng trọng hơn…

Trước mộ Lưu Bị

Trước mộ Lưu Bị

Đọc truyện thời Tam Quốc, người ta ngậm ngùi thương cảm cho giấc mộng phục hưng nhà Hán không thành của Khổng Minh Gia Cát, quân sư của Lưu Bị. Tháng 8 năm 234, mất do bị bệnh lúc 54 tuổi, Khổng Minh được an táng trên ngọn Định Quân Sơn ở vùng Hán Trung. Sau khi kết thúc cuộc phân tranh Tam Quốc, người dân nhiều nơi đã lập miếu thờ vị thừa tướng thanh liêm, tài trí của họ. Chỉ riêng vùng đất Thục đã có đến 40 miếu thờ Khổng Minh, tuy nhiên trong số đó Miếu Vũ Hầu ở Thành Đô nổi tiếng hơn cả.

Vũ Hầu Miếu là một quần thể di tích gồm Hán Chiêu Liệt miếu thờ Lưu Bị, Huệ Lăng tức lăng mộ Lưu Bị và miếu thờ Gia Cát Lượng. Ban đầu, miếu thờ và lăng mộ của Lưu Bị được xây dựng vào năm 223, ngay sau khi ông qua đời. Sau này, Lý Hùng, vua nước Thành Hán (tại vị từ năm 303 - 334), cho xây dựng thêm Vũ Hầu Từ trong khuôn viên này để thờ Gia Cát Lượng.

Ngôi miếu bị cháy trong chiến tranh vào cuối thời nhà Minh, khi loạn quân của Trương Hiến Trung tiến vào Thành Đô năm 1644. Sau đó, miếu được trùng tu trong những năm 1671 - 1672, dưới thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Từ năm 1961, miếu được công nhận là di tích trọng điểm cấp Quốc gia của Trung Quốc.

Du khách vào viếng mộ Hoàng đế Lưu Bị

Du khách vào viếng mộ Hoàng đế Lưu Bị

Trong hành trình trải nghiệm viếng miếu, người thuyết minh cho biết, Vũ Hầu Miếu có diện tích hơn 15.000 m2, gồm ba gian: Gian ngoài thờ Thục chúa Lưu Bị, gian giữa thờ Khổng Minh và gian cuối thờ ba anh em Lưu - Quan - Trương. Khu di tích có năm cổng, các cổng chạy từ bắc đến nam, du khách có thể dễ dàng nhìn từ cổng bên này sang cổng bên kia.

Bước vào trong, du khách sẽ bắt gặp ngay hai bức thư pháp được khắc trên 37 phiến đá, mỗi phiến cao 63 cm, rộng 58 cm, là “Tiền xuất sư biểu” và “Hậu xuất sư biểu” của Gia Cát Lượng. Bước qua cổng thứ nhất có tấm bảng “Minh lương thiên cổ” (Vua sáng tôi hiền còn lưu danh thiên cổ). Ở các dãy nhà hành lang phía đông và tây đặt 47 bức tượng của những vị tướng quan trọng nhà Thục Hán đã giúp Lưu Bị thiết lập và củng cố triều chính. Bên trái là các văn quan, bên phải là các võ tướng. Dưới mỗi bức tượng đều ghi tên họ và công trạng tiêu biểu của từng vị.

Những bức tượng trước mặt tôi có màu sắc sống động, nét khắc tạc phổ theo tính cách của từng người mà sử, văn từng miêu tả với những đôi mắt mở lớn nhìn thẳng. Một số bức tượng còn có cử chỉ rõ ràng; biểu cảm gương mặt giống như trên những chiếc mặt nạ của Xuyên kịch nổi tiếng, có khả năng biến diện, lật chuyển gương mặt độc đáo.

Tôi chầm chậm rảo bước theo trình tự các kiến trúc miếu. Giữa cổng trước và cổng thứ hai là sáu bức bia đá cao khoảng ba mét. Trong số đó nổi tiếng nhất là Bia tam tuyệt, bao gồm ba di sản lịch sử giá trị của Trung Quốc: Một bài thơ của Bùi Độ (một trọng thần phục vụ qua bốn triều đại Hiến, Mục, Kính, Văn); một bức thư pháp của Liễu Công Xước và một bản in khắc bởi bậc thầy nghề thủ công chạm khắc Lỗ Kiến.

Qua cổng thứ hai là miếu thờ Lưu Bị. Trước cổng treo một tấm biển lớn đề bốn chữ “Hán Chiêu Liệt Miếu” (miếu thờ vua Chiêu Liệt nhà Hán). Miếu thờ Lưu Bị được xây cao hơn những miếu khác trong di tích Vũ Hầu, với một bệ chạm trổ hình rồng mây phía trước, thể hiện địa vị cao quý của hoàng đế.

Bên trong miếu, du khách có thể chiêm ngưỡng bức tượng Lưu Bị mạ vàng cao ba mét ở chính giữa. Bên phải là gian thờ Trương Phi cùng con, cháu. Quan Vũ và con trai Quan Bình cùng bộ tướng Chu Thương được thờ ở gian bên trái.

Một em nhỏ chăm chú đọc thông tin trên lời ghi công trạng các võ tướng triều Thục Hán

Một em nhỏ chăm chú đọc thông tin trên lời ghi công trạng các võ tướng triều Thục Hán

Bước qua hậu điện đền thờ Lưu Bị, qua một sảnh nhỏ là đến miếu thờ Gia Cát Lượng. Miếu thờ Ngọa Long tiên sinh thấp hơn một chút so với miếu thờ Lưu chủ. Bên trong đặt bức tượng Gia Cát Lượng mạ vàng, tay cầm chiếc quạt lông vũ.

Đứng trước bệ thờ bậc “vạn đại quân sư”, tôi như thấy ông đang lay động nhẹ chiếc quạt, thể hiện sự tự tin, bình thản, ung dung tự tại, luôn nắm chắc phần thắng. Mé trái miếu thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng có một lối đi yên tĩnh với hai bên tường sơn đỏ rợp bóng trúc râm mát là lăng mộ của Lưu Huyền Đức, còn gọi là Huệ Lăng. “Huệ” trong tiếng Hán có nghĩa là “điều tốt”.

Theo sử cũ, Gia Cát tiên sinh đích thân chọn vị trí của Huệ Lăng. Trước cửa lăng có tấm biển ghi bốn chữ “Thiên thu lẫm nhiên”, lấy từ một câu trong bài thơ “Thục Tiên Chủ miếu” của thi nhân Lưu Vũ Tích đời Đường viết về Lưu Bị và triều Thục. Có lẽ cũng cần trích lại bài thơ có tính khái quát cao này: “Thiên địa anh hùng khí/ Thiên thu thượng lẫm nhiên/ Thế phân tam túc đỉnh/ Nghiệp phục ngũ thù tiền/ Đắc tướng năng khai quốc/ Sinh nhi bất tượng hiền/ Thê lương Thục cố kỹ/ Lai vũ Ngụy cung tiền” (Dịch nghĩa: Khí anh hùng ngài còn ở trong trời đất/ Ngàn thu sau phải còn khiến người ta kính sợ/ Khi ấy thế nước chia làm ba phần giống như ba chân vạc/ Đã khôi phục nghiệp đế, đem lại thời đại tiền Ngũ châu/ Đã tìm được vị thừa tướng có tài mở nước (Khổng Minh)/ Nhưng sinh phải đứa con (Lưu Thiện) không có tài đức giống mình/ Những nàng kỹ nữ xưa của nước Thục nay phải héo hắt, đau thương/ Đến múa trước cung Ngụy.)

Tác giả trước đường vào Huệ Lăng - phần mộ của Hoàng đế Lưu Bị và hai phu nhân

Tác giả trước đường vào Huệ Lăng - phần mộ của Hoàng đế Lưu Bị và hai phu nhân

Qua khỏi cửa lăng là tấm bia “Hán Chiêu Liệt hoàng đế chi mộ” được dựng vào năm Càn Long thứ 53 (tức năm 1788). Đây là một lăng mộ ba người, táng cùng Lưu Bị là hai người vợ, Cam phu nhân và Ngô phu nhân. Gần đó là Tam Nghĩa miếu, nơi tưởng niệm tình huynh đệ của Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi.

Ở lối vào miếu, hai bên có hình khắc vào đá các sự tích anh hùng của ba anh em Lưu - Quan - Trương như Tam anh chiến Lã Bố, Quan Công đơn đao phó hội hay Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu… Bước vào bên trong miếu, du khách ngắm tượng ba vị huynh đệ ngồi yên trầm lặng nhưng toát ra những đặc điểm tính cách riêng biệt. Khác với các bức tượng ở đền thờ phía trước, các tượng ở đây đều mặc thường phục chứ không phải triều phục, nhằm đề cao tình nghĩa huynh đệ đồng cam cộng khổ của ba người từ thuở mới “đào viên kết nghĩa”…

Ngày giữa thu, viếng thăm ngôi miếu thờ những bậc “anh hùng cái thế”, “vạn đại quân sư” giữa kinh đô nhà Thục Hán gần hai ngàn năm trước, lữ khách đến từ phương xa là tôi chợt bâng khuâng nhớ đến mấy câu thơ trong bài Vịnh Vũ Hầu của Bạch Cư Dị: “Tiền hậu xuất sư di biểu tại/ Linh nhân nhất lãm lệ triêm khâm” (Xuất sư sau, trước để lời/ Xem rồi, rơi lệ áo người đời sau”.

Cảm tác ngậm ngùi ấy của thi nhân họ Bạch đời Đường cũng nói thay lòng người hậu thế khi ghé chốn linh thiêng “những người muôn năm cũ”…

(CÒN TIẾP)

UÔNG THÁI BIỂU

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/xa-hoi/phong-su-ky-su/202412/tu-xuyen-ky-su-ky-2-vieng-mieu-vu-hau-tan-man-ve-dao-quan-than-thuc-han-6120ae9/
Zalo