Tự quản trong cộng đồng xã hội và quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về vấn đề này

Sự tồn tại của tự quản trong cộng đồng xã hội không chỉ là một tất yếu đối với sự ổn định, phát triển của xã hội, mà còn là tất yếu đối với quản lý xã hội của nhà nước. Phát triển các hình thức tự quản trong cộng đồng xã hội vừa là một trong những phương thức bổ sung, nâng cao năng lực quản trị của nhà nước hiện đại, vừa là một xu hướng phù hợp với nhu cầu dân chủ ngày càng cao của người dân. Nhận thức được xu hướng tất yếu đó, Đảng và Nhà nước ta đã sớm thiết lập khuôn khổ chính trị, pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của các hình thức tự quản trong cộng đồng xã hội.

 Việc xây dựng hương ước và các hình thức tự quản cộng đồng có vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc_Ảnh: sovhttdl.thaibinh.gov.vn

Việc xây dựng hương ước và các hình thức tự quản cộng đồng có vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc_Ảnh: sovhttdl.thaibinh.gov.vn

Những vấn đề cơ bản về tự quản trong cộng đồng xã hội

Tự quản trong cộng đồng xã hội là một khái niệm rộng, liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.

Dưới góc độ xã hội học, tự quản trong cộng đồng xã hội là những nguyên tắc xử sự chung được hình thành trong cộng đồng xã hội, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, từ đó tạo ra sự tự quản, duy trì ổn định chung cho toàn xã hội, đồng thời chứa đựng trong nó những thiết chế xã hội mới quy định sự vận động biến đổi của xã hội. Tự quản trong cộng đồng xã hội chính là khuôn mẫu, chuẩn mực hành vi, đạo đức, lối sống, giá trị, phong tục, tập quán, truyền thống,… có tác dụng duy trì sự ổn định và trật tự của một cộng đồng xã hội(1).

Dưới góc độ chính trị học, tự quản trong cộng đồng xã hội dùng để chỉ các lực lượng, thiết chế xã hội được hình thành bởi cộng đồng xã hội và có một mức độ độc lập nhất định so với thiết chế của nhà nước. Các thiết chế tự quản này do cộng đồng dân cư bầu ra người đứng đầu, tự xây dựng nên quy tắc xử sự chung, điều lệ, cơ chế hoạt động. Người dân trong cộng đồng đó có quyền quyết định, giải quyết các vấn đề của mình theo nguyên tắc được đề ra trong các hương ước, hội, hiệp hội và điều lệ hoạt động(2).

Dưới góc độ cơ chế vận hành nền dân chủ, tự quản trong cộng đồng có nghĩa là nhân dân tham gia vào xây dựng cơ chế quản lý chính mình và xã hội; hay nhân dân vừa là người quản lý, vừa là đối tượng quản lý. Vì vậy, tự quản còn là một cơ chế hoạt động của nền dân chủ, thể hiện rõ quyền tự do và dân chủ của người dân, nhất là dân chủ trực tiếp, trong đó người dân tham gia lựa chọn và quyết định nhiều nội dung liên quan đến bản thân mình, tự quyết định một số thiết chế tự quản và hệ thống các quy định, nguyên tắc, điều lệ, luật tục quản lý và bị quản lý bởi chính các quy định đó.

Dưới góc độ phân quyền quản lý xã hội, tự quản trong cộng đồng xã hội là một hình thức phi tập trung hóa quyền lực của nhà nước, theo đó nhà nước giao một phần quyền quản lý xã hội vào các tổ chức tự quản của nhân dân ở địa phương. Tổ chức tự quản cộng đồng được quyết định, quản lý một phần các công việc xã hội, trong khuôn khổ pháp luật và phải chịu trách nhiệm nhằm phục vụ lợi ích của dân cư địa phương. Như vậy, đây là thực thể xã hội được thành lập dựa trên cơ sở bầu cử bởi những công dân trong cùng một cộng đồng để thực hiện các công việc quản lý mang tính cộng đồng hoặc do nhà nước ủy quyền(3).

Tổng hợp các góc độ nghiên cứu trong mối quan hệ với xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có thể xác định: Tự quản trong cộng đồng xã hội là hình thức tổ chức xã hội do cộng đồng dân cư lập nên, bầu ra người đứng đầu, hoạt động theo cơ chế dân chủ, không trái với quy định pháp luật của Nhà nước. Theo đó, người dân trong cộng đồng cùng tham gia bàn bạc, quyết định và thực hiện các hoạt động của tổ chức tự quản một cách trực tiếp và giải quyết các vấn đề gắn liền với nhu cầu của cư dân trong cộng đồng đó.

Tự quản trong cộng đồng xã hội có nhiều cấp độ khác nhau, có thể chia ở ba cấp độ.

Ở cấp độ cao nhất, tự quản trong cộng đồng xã hội chính là chế độ xã hội tự quản: Là chế độ xã hội hoàn toàn được vận hành bởi các tổ chức tự quản và cơ chế tự quản dựa trên quyền tự quyết của các tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư. Theo dự đoán của C. Mác, khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng, nhà nước tự tiêu vong, chế độ nhà nước thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa. Chế độ xã hội tự quản là cấp độ cao nhất của tự quản trong cộng đồng khi toàn thể xã hội được tổ chức theo nguyên tắc và tổ chức tự quản của người dân.

Ở cấp độ thứ hai, tự quản trong cộng đồng xã hội chính là các thiết chế tự quản được hình thành trong cộng đồng dân cư, bao gồm tổ chức tự quản và nguyên tắc tự quản có sự độc lập nhất định với nhà nước.

Về tổ chức, tự quản trong cộng đồng xã hội là hình thức tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện, người dân trong cùng một cộng đồng bầu ra người đứng đầu để thực hiện các công việc quản lý mang tính cộng đồng hoặc do nhà nước ủy quyền. Các tổ chức tự quản chịu trách nhiệm tổ chức, duy trì các hoạt động của cộng đồng theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời chịu trách nhiệm với chính quyền cơ sở. Các tổ chức tự quản có thể được tổ chức trên cơ sở địa bàn dân cư, hoặc tổ chức theo lĩnh vực ngành nghề, sở thích, thói quen, phong tục, dòng họ,… mà không bị hạn chế bởi địa bàn dân cư.

Về phạm vi hiệu lực của nguyên tắc tự quản, có thiết chế tự quản chung cho toàn xã hội, như đạo đức, văn hóa,… tạo thành nguyên tắc tự quản, ổn định chung cho toàn xã hội. Bên cạnh đó, còn có những thiết chế tự quản được những nhóm cộng đồng dân cư thừa nhận, làm theo, như hương ước, quy định, điều lệ của một tổ chức tự quản xã hội cụ thể.

Ở cấp độ thứ ba, tự quản trong cộng đồng xã hội chính là các hoạt động tự quản do các thành viên của cộng đồng thực hiện theo nguyên tắc tự quản, tự quyết. Người dân trong cộng đồng cùng tham gia bàn bạc, quyết định, thực hiện và hưởng thụ lợi ích từ những hoạt động đó. Hoạt động tự quản có thể bao gồm hoạt động tham gia bàn bạc, xây dựng, triển khai hương ước, quy định của thôn, bản, tổ dân phố; xây dựng điều lệ của các hội, nhóm, câu lạc bộ; hoạt động của một cộng đồng dân cư trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường khu dân cư, sửa chữa cơ sở vật chất, giữ gìn an ninh, trật tự, di tích lịch sử, phong tục, tập quán và sinh hoạt văn hóa cộng đồng; hoạt động chăm sóc người già neo đơn hoặc giáo dục trẻ em có hoàn cảnh khó khăn… Các hoạt động tự quản này cấu thành các mô hình tự quản.

Tự quản trong cộng đồng xã hội có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, các tổ chức tự quản được hình thành một cách tự nguyện, các thành viên của tổ chức tự quản tự nguyện tham gia, tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc, điều lệ của tổ chức; tổ chức tự quản có quyền tự quyết định mục tiêu, cơ chế hoạt động và có sự độc lập nhất định so với quyền lực của nhà nước.

Thứ hai, các tổ chức tự quản hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, quyết định theo nguyên tắc đa số hướng tới mục tiêu chung của các thành viên tham gia.

Thứ ba, tự quản trong cộng đồng xã hội có tính đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc điểm riêng từng cộng đồng, địa phương, nhóm xã hội.

Thứ tư, tự quản trong cộng đồng xã hội thường đại diện cho lợi ích nhóm, tập thể gắn liền với một cộng đồng dân cư nhất định.

Thứ năm, tổ chức tự quản trong cộng đồng xã hội thường không có cơ cấu chặt chẽ, không tồn tại một cách có hệ thống từ trên xuống dưới và giữa các tổ chức tự quản trong cộng đồng xã hội không có mối liên hệ mật thiết với nhau.

 Cán bộ Đồn Biên phòng Lũng Nặm, tỉnh Cao Bằng trao đổi tình hình với Tổ tự quản biên giới xóm Cáy Tắc, xã Lũng Nặm, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng_Nguồn: vov.vn

Cán bộ Đồn Biên phòng Lũng Nặm, tỉnh Cao Bằng trao đổi tình hình với Tổ tự quản biên giới xóm Cáy Tắc, xã Lũng Nặm, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng_Nguồn: vov.vn

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tự quản trong cộng đồng xã hội

Nhận thức rõ tự quản trong cộng đồng xã hội là hình thức thực hiện quyền làm chủ của người dân một cách trực tiếp, ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chủ trương xây dựng nhiều hình thức tổ chức tự quản trong cộng đồng. Thông qua các tổ hợp tác, các tổ đội sản xuất, tổ tự quản của cộng đồng dân cư…, người dân làm chủ, trực tiếp bầu ra người đứng đầu và tổ chức hoạt động dựa trên ý kiến của tập thể, bảo đảm lợi ích cho đa số chứ không phải thiểu số. Quá trình chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, các hình thức tự quản cộng đồng trong thời bao cấp không còn phù hợp nữa, theo đó hình thức và phương thức tự quản cộng đồng cũng có sự thay đổi. Quan điểm của Đảng là tiếp tục xây dựng, phát triển các hình thức tự quản mới đa dạng để thực hiện quyền làm chủ của người dân, được thể hiện rõ trong các nghị quyết, chỉ thị.

Ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW, về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ: “Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính xã hội hóa, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, xây dựng tổ hòa giải, tổ an ninh, phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo…)”.

Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18-3-2002, của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, chỉ rõ: Thôn, làng, ấp, bản, sóc (gọi chung là thôn) là địa bàn quan trọng để phát huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở quan hệ truyền thống gắn bó trong đời sống vật chất và văn hóa. Khu phố hoặc tổ dân phố (tổ chức dưới phường) cũng có điều kiện và khả năng thực hiện một số hoạt động tự quản, như giúp đỡ nhau sản xuất, giảm nghèo, bảo thọ, xây dựng đời sống văn hóa, phòng, chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, vệ sinh, môi trường... Thôn, khu phố hoặc tổ dân phố không phải là một cấp hành chính. Trưởng thôn, trưởng khu phố hoặc tổ trưởng dân phố do dân trực tiếp bầu vừa là người đại diện cho dân, vừa là người đại diện cho chính quyền xã, phường, thị trấn để thực hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn, khu phố, tổ dân phố.

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở… Đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; coi trọng và mở rộng các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú... Đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở cơ sở theo hướng phát huy tính chủ động của các đoàn thể ở cơ sở trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí. Sửa đổi những quy định không còn phù hợp về hội phí, đoàn phí; thu đủ hội phí, đoàn phí và ưu tiên dành cho cơ sở; Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân và tạo điều kiện để các đoàn thể gây quỹ theo đúng pháp luật.

Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 15-12-2016, của Ban Bí thư, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” nêu nhiệm vụ: “Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản của khu dân cư; phát hiện, nhân rộng, biểu dương, khen thưởng kịp thời, thỏa đáng các điển hình trong thực hiện cuộc vận động, tạo sự lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng, tạo động lực mạnh mẽ trong xã hội”.

Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc và bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của chính quyền”.

Ngày 27-11-2017, Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch số 07-KH/TW thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, giao nhiệm vụ cho Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo xây dựng “Đề án thực hiện mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố trên phạm vi cả nước”. Trên tinh thần đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng mô hình tự quản tại các địa phương, đơn vị để có cơ sở thực tiễn, luận cứ khoa học trong quá trình xây dựng và triển khai Đề án trên phạm vi cả nước.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng các mô hình tự quản: “Động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng”(4). Qua đó, nhằm góp phần thực thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Khuôn khổ pháp lý của Nhà nước về tự quản cộng đồng

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tự quản trong cộng đồng dân cư, các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức tự quản lần lượt được ban hành. Hiến pháp năm 2013, Điều 25 quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định(5). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức tự quản thông qua quyền tự do lập hội do cộng đồng dân cư.

Ngoài Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức tự quản được ban hành theo trình tự thời gian bao gồm: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11-5-1998, sau đó được thay thế bằng Nghị định 79/2003/NĐ-CP, ngày 7-7-2003, của Chính phủ, về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; Thông tư liên tịch 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQ, ngày 31-3-2000, của Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa thông tin - Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV, ngày 6-12-2002, của Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố. Trong đó quy định rõ: “thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc... (gọi chung là thôn); tổ dân phố, khu phố, khóm... (gọi chung là tổ dân phố) không phải là một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản và tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao”. Cơ chế hoạt động của thôn theo nguyên tắc dân chủ, cộng đồng dân cư trong thôn cùng nhau thảo luận, quyết định và thực hiện các công việc tự quản.

Thông tư liên tịch 01-2005/TTLT-BTTUBTWMTTQVN-BNV, ngày 12-5-2005, của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Nội vụ hướng dẫn quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày 20-4-2007, về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, quy định những vấn đề thuộc phạm vi tự quản của người dân. Chương 3 của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 quy định nội dung, hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp thông qua các tổ chức tự quản và họp cử tri như thôn, tổ dân phố; những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định.

Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN, ngày 17-4-2008, của Chính phủ - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội có Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21-4-2010, của Chính phủ; Nghị định số 33/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP), ngày 13-4-2012. Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP, ngày 8-10-2024, quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thay thế hai nghị định trên, có hiệu lực từ ngày 26-11-2024. Nghị định 126/2024/NĐ-CP xác định rõ: hội là tổ chức tự nguyện của tổ chức, công dân Việt Nam cùng lĩnh vực, ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức, hoạt động của hội được thực hiện theo các nguyên tắc: 1. Tự nguyện, tự quản; 2. Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch; 3. Tự bảo đảm kinh phí hoạt động; 4. Không vì mục tiêu lợi nhuận; 5. Tuân thủ Hiến pháp, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và điều lệ hội.

Thông tư 04/2012/TT-BNV, ngày 31-8-2012, của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố; Thông tư 14/2018/TT-BNV, ngày 3-12-218, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 04/2012/TT-BNV, ngày 31-8-2012, của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về việc tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố, trong đó xác định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố: “Bảo đảm tính tự quản của cộng đồng dân cư, chấp hành sự quản lý nhà nước trực tiếp của chính quyền cấp xã và sự lãnh đạo của cấp ủy đảng”.

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 75/2015/QH13, điểm c khoản 1 Điều 14 xác định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: phối hợp với cơ quan nhà nước xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua “tham gia đối thoại, hòa giải, xây dựng cộng đồng tự quản tại địa bàn khu dân cư”(6).

Gần đây nhất, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội thông qua ngày 10-11- 2022, có hiệu lực từ ngày 1-7-2023, là sự bổ sung, hoàn thiện và nâng cao mức độ thừa nhận pháp lý với hoạt động tự quản cộng đồng, trong đó xác định những nội dung nhân dân bàn và quyết định; hình thức nhân dân bàn và quyết định; trình tự tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư, phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình; nội dung, hình thức, hiệu lực của quyết định của cộng đồng dân cư… Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ quyết định của cộng đồng dân cư, khoản 1 Điều 22 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 quy định: “Quyết định của cộng đồng dân cư được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: (a) Có nội dung trái với quy định của pháp luật, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục, đạo đức xã hội; (b) Không tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục thông qua văn bản của cộng đồng dân cư theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; (c) Cộng đồng dân cư thấy cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ”(7).

Theo đó, khuôn khổ pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức tự quản đã được hình thành về cơ bản, được thừa nhận ở cấp cao nhất là Hiến pháp và có văn bản luật, dưới luật quy định điều kiện thành lập, lĩnh vực, cơ chế hoạt động của các tổ chức tự quản. Khuôn khổ pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức tự quản cũng được hình thành, trên cơ sở đó định hình một cách căn bản mối quan hệ giữa các tổ chức tự quản với cơ quan quản lý nhà nước cấp cơ sở.

Như vậy, theo khuôn khổ luật pháp quy định, tự quản ở cộng đồng dân cư Việt Nam có đầy đủ đặc điểm của tổ chức tự quản, bao gồm:

Một là, người đứng đầu tổ chức tự quản do cộng đồng dân cư hoặc các thành viên bầu ra một cách dân chủ thông qua các cuộc họp thành viên hoặc đại diện các thành viên.

Hai là, các tổ chức tự quản có quyền tự quyết: tự lựa chọn người đứng đầu, tự quyết định mục tiêu, tôn chỉ, nguyên tắc hoạt động thông qua xây dựng các quy định, hương ước, điều lệ của tổ chức; tự triển khai, thực hiện các hoạt động của tổ chức tự quản và cũng là đối tượng thụ hưởng kết quả của những hoạt động tự quản.

Ba là, các tổ chức tự quản hoạt động theo nguyên tắc dân chủ: Người đứng đầu tổ chức tự quản do các thành viên bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, có trách nhiệm tổ chức, thực hiện những hoạt động cộng đồng theo sự quyết định và đồng thuận của các thành viên hoặc cộng đồng dân cư. Các quyết định của tổ chức tự quản chỉ có hiệu lực khi có một tỷ lệ phiếu đồng ý nhất định (trên 50% tùy theo nội dung).

Bốn là, nguồn lực tài chính của tổ chức tự quản được huy động từ sự đóng góp của các thành viên trong cộng đồng và phải công khai, minh bạch các khoản thu - chi trước các thành viên.

Năm là, hoạt động của các tổ chức tự quản phải tuân thủ quy định của pháp luật, không được trái với quy định của pháp luật.

-------------------------------------

(1) Xem: Nguyễn Hữu Khiển (chủ biên): Giáo trình xã hội học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 47 - 49
(2) Xem: Nguyễn Hữu Khiển (chủ biên): Tldd, tr. 71 - 74
(3) Xem: Nguyễn Thị Thiện Trí: Tự quản địa phương và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2014, tr. 23 - 27
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, t. 1, tr. 174
(5) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 18
(6) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 75/2015/QH13, Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, https://vbpl.vn/botaichinh/Pages/vbpq-van-ban-goc.aspx?ItemID=70822
(7) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở số 10/2022/QH15, https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=207718&classid=1&orggroupid=1

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/thuc-tien/tu-quan-trong-cong-dong-xa-hoi-va-quan-diem-cua-dang-chinh-sach-phap-luat-cua-nha-nuoc-ta-ve-van-de-nay-59251.html
Zalo