Từ núi rừng A Lưới, 'voi thép' về giải phóng Cố đô

Đại đội xe tăng 4 thuộc Lữ đoàn 203 đã quá nổi tiếng bởi là đơn vị 'húc cổng, cắm cờ' ngày 30/4/1975. Nhưng không phải ai cũng biết, trước đó, đơn vị này nằm trong biên chế Tiểu đoàn XT 408 của Mặt trận Trị - Thiên (B4) và đã tham gia chiến đấu giải phóng Huế ngày 25/3/1975.

 Tác giả đang vẽ lại sơ đồ bố trí đội hình đơn vị tại hậu cứ Hồng Bắc (A Lưới)

Tác giả đang vẽ lại sơ đồ bố trí đội hình đơn vị tại hậu cứ Hồng Bắc (A Lưới)

Cố đô ơi, ta đã về đây!

Ôi Huế! Ôi Cố đô! Ôi Phú Xuân! Thành phố đã hiện hữu trong lời ru của bà, của mẹ từ thuở ấu thơ; thành phố mà chúng tôi đã nghe tên từ thời còn cắp sách tới trường; thành phố mà suốt gần 3 năm qua chúng tôi từng ngày, từng giờ mong ngày hội ngộ! Giờ đây tôi và đồng đội đã thỏa niềm mong. Một cảm giác lâng lâng vui sướng, tự hào lan tỏa trong tôi.

Đánh sập núi Bông - chốt chặn cuối cùng phía nam thành Huế

Đêm 19/3/1975, Đại đội xe tăng 4 chúng tôi nhận lệnh xuất kích đi chiến đấu giải phóng Huế. Cả đại đội vô cùng phấn khích bởi từ tháng 4/1972, chúng tôi đã hành quân vào A Lưới rồi theo đường 12 (nay là Quốc lộ 49) xuống đến Tà Lương, chỉ còn cách Huế chừng 40km song phải dừng lại vì nhiều nguyên nhân. Ba năm nằm lại tại núi rừng A Lưới song trong lòng chúng tôi lúc nào cũng hướng về thành Huế, đến nỗi Đại đội trưởng Bùi Quang Thận khi về phép cưới vợ đã dặn ở nhà: "Nếu đẻ con trai thì đặt tên Thành, còn đẻ con gái thì đặt tên Huế". Thời điểm đó, chúng tôi thuộc biên chế Tiểu đoàn Xe tăng 408 của Mặt trận Trị - Thiên (B4), mãi đến cuối năm 1973 mới chuyển thuộc Lữ đoàn XT 203. Nay thời cơ về Huế đã đến, cả đơn vị phấn khích cũng là lẽ thường.

Trưa 20/3, chúng tôi rời hậu cứ ở Hồng Bắc (A Lưới) theo đường 73 để về Khe Tre (Nam Đông cũ). Đây là con đường mới mở nên rất hẹp và nhiều đèo cao, vực sâu. Vì xuyên qua rừng nguyên sinh nên ngay cạnh đường là những vầng phong lan rực rỡ tưởng chừng với tay là tới. Đến khu vực Nam Đông, chúng tôi theo đường 14B về động Truồi. Tại đỉnh động Truồi, chúng tôi nhận lệnh sẽ tăng cường cho bộ binh của Sư đoàn 324 tiến công cứ điểm núi Bông (nay thuộc Phú Lộc), sau đó phát triển ra đường 1 để tiến công Huế từ phía nam.

 Tác giả (thứ ba từ trái sang) cùng đồng đội về thăm lại hậu cứ Hồng Bắc (A Lưới)

Tác giả (thứ ba từ trái sang) cùng đồng đội về thăm lại hậu cứ Hồng Bắc (A Lưới)

Núi Bông là một cứ điểm án ngữ đường 14B trong cụm cứ điểm tây - nam Huế của quân đội Sài Gòn nhằm ngăn chặn đường tiến của quân ta về Huế. Do chiếm địa hình có lợi, lại có hệ thống công sự vật cản vững chắc cộng với sự chi viện hỏa lực rất mạnh nên bộ binh của Sư đoàn 324 đã đánh từ ngày 20/3 mà chưa dứt điểm. Biết đây là một cứ điểm mạnh của địch, cả đại đội tiến hành công tác chuẩn bị về mọi mặt hết sức tích cực.

Mò mẫm suốt đêm đến 5 giờ sáng 23/3, chúng tôi mới xuống hết dốc động Truồi và tới được vị trí "điều chỉnh cuối cùng" cách chân núi Bông chừng 3km. Đúng lúc đó, bầu trời như bị xé nát bởi hàng trăm quả đạn pháo, hỏa tiễn H12 và cả cao xạ 37 ly hạ nòng bắn vào cứ điểm. Đó chính là hỏa lực chuẩn bị của ta. Chúng tôi nhanh chóng tháo bỏ vật chất cố định trên xe rồi tăng tốc độ lên chiếm tuyến triển khai. Thành một hàng dọc - xe 386 của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận dẫn đầu, xe 381 của Trung đội trưởng Trung đội 1 Mai Hồng Trị chạy thứ hai, xe 380 của tôi chạy thứ ba, xe 387 của Trung đội trưởng Trung đội 2 Phạm Xuân Tráng chạy thứ tư và xe 390 của Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chạy sau cùng. Nhưng một kẻ thù giấu mặt đã lên tiếng, xe 387 bị một quả mìn chống tăng phát nổ làm đứt tung xích. Cả đại đội còn 4 xe vẫn tăng tốc lên chiếm tuyến triển khai hùng dũng như một đàn voi xung trận.

Tuyến triển khai của xe tăng là nơi mà phân đội xe tăng chuyển từ đội hình hàng dọc thành đội hình hàng ngang để dùng hỏa lực tiêu diệt các mục tiêu tiền duyên, sau đó sẽ xuất kích dẫn dắt bộ binh đánh chiếm mục tiêu bên trong. Đó là một sườn đồi đối diện với núi Bông, cách chân núi Bông một dải đồi thấp chừng hơn 1.000m. Từ đây, bằng mắt thường nhìn sang cứ điểm núi Bông cũng thấy rõ mồn một các công sự chiến đấu. Vừa nhìn rõ mục tiêu, các xe đã bắt đầu bắn. Với khoảng cách này, mỗi phát đạn pháo 100mm bắn ra, một công sự địch lại tung lên, bộ binh phấn khởi, reo hò ầm ĩ. Phía bên kia cũng đang phản pháo song hầu như toàn đạn nổ mảnh nên không hề hấn gì với đàn voi thép.

Tuy nhiên, khi có lệnh xung phong thì lần lượt xe 386, 381 bị sa lầy. Sau khi cứu kéo lên và khảo sát địa hình, chúng tôi buộc phải dừng lại tại chỗ dùng hỏa lực chi viện cho bộ binh tiến công. Dưới hỏa lực của 4 họng pháo 100mm bắn trực tiếp, gần trưa ngày 23/3, quân địch đã phải rút chạy. Đại đội trưởng Thận xin truy kích song cấp trên không chấp nhận vì dưới đường 14B đoạn qua núi Bông rất nhiều mìn. Chúng tôi tiếc hùi hụi vì từ đây về Huế chỉ chừng hơn 20km.

Suốt cả ngày 24/3, chúng tôi phải nằm chờ công binh dò gỡ mìn. Tranh thủ thời gian chờ đợi, chúng tôi bổ sung đạn dược, bảo dưỡng xe tăng. Thật chưa bao giờ tôi thấy nhiều mìn chống tăng đến vậy, không chỉ có mìn địch mà có cả mìn ta chất thành đống nhìn rùng cả mình. Sở dĩ có tình trạng như vậy vì trong chiến dịch K18 năm 1974, ta đã chiếm được vùng này; để chống địch nống ra, ta đã gài thêm hàng loạt mìn chống tăng. Tuy nhiên, sau đó bị địch chiếm lại và chúng lại bố trí thêm một lượt mìn nữa. Nhưng cũng may, do phải nằm chờ gỡ mìn nên 2 xe bị hỏng đến kịp, nâng quân số đại đội lên thành 6 xe.

Tiếp tục tiến về phía bắc Huế

Cuộc dò gỡ mìn kéo dài đến quá nửa đêm 24/3. Ngay sau đó, chúng tôi được lệnh chở theo bộ binh đi đánh La Sơn. Tiểu khu La Sơn nằm trên Quốc lộ 1 và chỉ cách Huế hơn 20km về phía nam (giờ là địa danh Lộc Sơn). Thực ra, lúc đó chúng tôi không nắm được lực lượng địch ở đó như thế nào nên tiến rất thận trọng, pháo súng tất cả đạn đã lên nòng, gườm gườm quan sát sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ cái gì khả nghi. Trời tang tảng sáng, đại đội tôi đã đến sát La Sơn. Một không khí vắng lặng hiện ra trước kính quan sát của chúng tôi: Dường như không có một bóng người ở đó, những cái lô cốt cũng im phăng phắc. Đoán là địch đã bỏ chạy, chúng tôi ào lên chiếm ngã ba La Sơn. Hóa ra đó chỉ như một thị tứ nhỏ nằm trên đường 1, phía trước có mấy cái lô cốt đã bỏ trống. Dân chúng cũng không thấy ai. Nhà nào nhà ấy cửa đóng kín mít, không một bóng người. Tại đây, chúng tôi dừng nghỉ một lúc để ăn sáng. Tôi đặt chân xuống con đường Quốc lộ 1 trải nhựa phẳng lỳ, thẳng tắp mà vẫn không tin vào cảm giác của mình. Huế - Cố đô đã gần lắm rồi, chỉ còn chưa đầy 20km.

Trên con đường Quốc lộ 1 đẹp như mơ, chúng tôi tăng tốc độ hướng về thành phố Huế. Nhưng những con voi thép đang hăng hái của chúng tôi bỗng bị khựng lại, cầu An Nông (cầu Nong) gần Phú Bài đã bị địch phá khi rút chạy trước đó chưa lâu, một vài thanh gỗ mặt cầu còn đang ngun ngún khói. Đại đội trưởng Thận và các trưởng xe tỏa ra trinh sát tìm chỗ vượt qua nhưng không được. Con sông này không lớn nhưng rất sâu, buộc chúng tôi phải đi đường vòng tránh theo chỉ dẫn của mấy đồng chí bộ đội địa phương sát vào tận chân dãy núi phía tây. Nơi đó là thượng nguồn của sông Nong, dòng sông khá hẹp. Anh Thận cho một người lội qua, thấy nước chỉ sâu ngang bụng nên quyết định cho xe lội theo. Tôi cho xe xuống, thấy nước mấp mé thân xe, dấn ga nhẹ một cái là nước tràn cả vào buồng lái. Cuối cùng rồi cũng qua được nhưng mãi đến trưa, chúng tôi mới quay trở lại được đường 1 chỗ gần cổng Sân bay Phú Bài.

Để bù lại thời gian đã mất, chúng tôi tăng tốc độ. Dọc đường đã thấy ngổn ngang súng ống, quần áo rằn ri bỏ lại. Thấy một xe tăng M48 dừng ngay cổng Sân bay Phú Bài, anh Thận lệnh dừng lại một lúc để nghiên cứu tình hình. Tôi nhảy sang chiếc M48 xem thấy nó vẫn đang nổ máy ình ình. Sau đó, anh Phạm Nghìn - Trưởng phòng Tăng quân đoàn lúc đó cũng có mặt và lấy thêm 1 xe M48 nữa rồi đi cùng chúng tôi về Huế.

Sau đó lệnh tiếp tục tiến được ban ra, tôi vừa chạy vừa căng mắt quan sát. Thêm ít phút những căn nhà lúp xúp ngoại ô phía nam thành Huế đã hiện ra trong kính ngắm; vẫn một không khí vắng lặng, bí ẩn bao trùm. Chạy tiếp một lúc nữa thì gặp chợ An Cựu cũng không một bóng người. Từ đây trở đi đã là phố xá. Những ngôi nhà hai, ba tầng trông rất xinh xắn nhưng cũng cửa đóng, then cài. Theo chỉ dẫn của các chiến sĩ bộ đội địa phương, chúng tôi chạy qua mấy dãy phố rồi lao lên một cây cầu bê tông rất lớn (sau mới biết là cầu Phú Xuân) bắc qua một con sông rộng. Tôi đoán đó là sông Hương. Nhìn sang bên phải cách đó không xa là một cây cầu khác với những nhịp cầu cong cong duyên dáng, tôi nhận ngay ra đó là cầu Trường Tiền vì đã nhiều lần được xem ảnh. Sang bờ bắc sông Hương, chúng tôi vượt qua một cổng thành cổ (sau mới biết là cổng Thượng Tứ) vào Đại Nội. Thấy ở đó đã có bộ đội ta, chúng tôi ra chiếm Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 1 của quân đội Sài Gòn tại thành Mang Cá. Tại đây địch cũng đã rút chạy, chỉ còn những căn nhà cửa giả mở toang và các loại giấy tờ bay trắng xóa cả khoảng sân rộng. Đến đây tôi mới biết, cờ Giải phóng đã được treo trên Cột cờ ở Thành Nội từ trưa. Thật tiếc, nếu cầu An Nong không bị địch phá, chúng tôi đã giải phóng Huế sớm được mấy tiếng đồng hồ. Nhưng nói gì thì nói, chúng tôi đã gặp may khi không phải chiến đấu với đội quân tử thủ ở đây.

Nằm ở thành Mang Cá chừng non một tiếng, sau khi nuốt vội mấy miếng lương khô, đại đội tôi được lệnh đi diễu quanh một số đường phố. Tôi đoán chắc cấp trên muốn biểu dương sức mạnh của Quân giải phóng nhằm làm yên lòng đồng bào và trấn áp quân địch còn lại. Lần đầu tiên được thấy xe tăng Quân giải phóng, đồng bào phấn khởi lắm, nhất là giới thanh niên, học sinh. Mặc xe đang chạy mà họ cứ sán vào vẫy cờ, vẫy tay. Đến tầm 3 giờ chiều, chúng tôi nhận lệnh truy kích địch ra cửa Thuận An.

Lỡ nước... trăm xe đành bỏ phí

Lực lượng tham gia truy kích địch ra cửa Thuận An gồm Đại đội Xe tăng 4 của chúng tôi và một đại đội bộ binh. Nói là đại đội nhưng thực ra chỉ có khoảng hơn 20 tay súng lên ngồi sau 6 chiếc xe tăng. Lần này chúng tôi đi qua cầu Trường Tiền. Cây cầu sắt trông duyên dáng vậy song thật là chắc chắn. Sáu chiếc xe tăng lao ầm ầm trên cầu mà nó không hề rung lắc tý nào. Không hiểu vì sao khi đến giữa cầu chúng tôi phải dừng lại khá lâu. Với tôi có lẽ đó là điều may mắn vì được thỏa sức ngắm nhìn những báu vật của thành phố Huế. Tôi trèo lên tháp pháo ngẩn ngơ ngắm dòng sông Hương thơ mộng, lòng ngập tràn những cảm xúc khó tả. Sông Hương thật đẹp, dòng nước xanh xanh êm ả chảy giữa hai bờ liễu rủ. Từ phía nam, một đoàn thiếu nữ trong trang phục áo dài trắng, nón trắng, tay cầm cờ Giải phóng đi sang bờ bắc vẫy chào chúng tôi ríu rít. Những chàng lính trẻ như bị thôi miên trước những gương mặt xinh xắn, những thân hình yểu điệu, thướt tha, những giọng nói nhẹ nhàng, ngọt lịm mà lâu lắm rồi họ mới gặp. Con gái Huế thật xinh đẹp và dễ thương, quả là "danh bất hư truyền"!

Một lúc sau có lệnh đi tiếp. Sau khi qua hết cầu, chúng tôi rẽ trái hướng về phía Thuận An tăng tốc độ. Những làng quê ven đô đã lác đác có cờ Giải phóng nên chúng tôi khá yên tâm. Nhưng càng đi thì đường càng vắng vẻ; chỉ thấy ven đường rải rác quần áo, súng ống của quân Việt Nam cộng hòa trút lại. Gần đến Thuận An, nhìn thấy rất nhiều xe tăng, anh Thận hạ lệnh đánh pháo thấp sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, khi quan sát kỹ thì thấy các khẩu pháo đều quay ra hướng biển nên chúng tôi không bắn mà tiếp tục tiến một cách thận trọng. Khi đến gần - một quang cảnh hỗn độn hiện ra trước mắt tôi - cả một bãi đất rộng như một sân bóng đá chất đầy các loại phương tiện chiến tranh cũng như dân sự: Từ xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo, cho đến xe tải, xe Jeep, xe du lịch, xe mô tô..., có cái vẫn còn đang nổ máy ình ình nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người.

Do không có phương tiện vượt sông, chúng tôi buộc phải dừng lại ngay đầu bến phà Thuận An và triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu. Thực ra, với 6 chiếc xe tăng và hơn 20 tay súng bộ binh thì lực lượng đó quá là mỏng yếu nếu so với lực lượng địch đang tập trung cao độ ở xung quanh, nên chúng tôi hết sức cảnh giác. Sau khi ổn định đội hình, anh Thận lệnh cho xe 381 hướng pháo ra phía biển bắn 1 phát pháo và 1 tràng đại liên 12 ly 7. Trong chạng vạng hoàng hôn đang tĩnh lặng đến nghẹt thở, tiếng nổ của pháo 100 như trầm vang hơn; còn tràng đạn 12 ly 7 nghe cũng chát chúa hơn. Nhưng tất cả vẫn yên lặng như tờ!

Biết rằng lính địch vẫn đang ẩn nấp đâu đây, Đại đội trưởng Thận cuộn một miếng bìa làm loa gọi họ ra hàng. Đứng trên đỉnh tháp pháo, hướng loa ra phía biển anh Thận dõng dạc: "Hỡi các anh em binh lính Việt Nam cộng hòa. Thành phố Huế đã được giải phóng. Các anh em binh lính nếu tự nguyện ra hàng sẽ được đối xử khoan hồng"! Sau ba bốn lần gọi, lác đác những bóng người từ phía bờ sông đi lên, hai tay giơ cao quá đầu. Trời đã gần tối, chúng tôi nhặt mấy cái lốp xe cũ đổ dầu vào đốt thành một đống lửa lớn gần xe 386 để làm nơi tập trung hàng binh. Thấy gần đó một xe quân y bị đổ nghiêng, cửa xe bung ra làm thuốc men và bông băng rơi ra đầy đường, tôi nhặt một đống băng trắng lại đưa cho anh Thận bảo họ buộc lên cánh tay.

Thế rồi, một người, hai người... rồi hàng đoàn lũ lượt từ nơi trú ẩn kéo ra, hầu hết đều cởi trần, chân đất; có người còn kéo theo cả bầu đoàn thê tử, nhếch nhác và rệu rã đến tột cùng. Lúc đầu, chúng tôi còn đếm, còn bắt tập trung thành từng nhóm rồi cho lên ô tô, tìm người biết lái chở về Huế. Càng về sau, lính địch ra hàng càng đông. Để tập trung họ ở đây không có lợi nên anh Thận nói với chúng tôi bảo họ cứ về quê đợi hôm sau ra trình diện với chính quyền cách mạng mà không cần tập hợp lại nữa. Chúng tôi không thống kê được hôm ấy đã tiếp nhận bao nhiêu người lính Việt Nam cộng hòa ra hàng mà chỉ biết là nhiều, nhiều lắm, có lẽ phải là con số nghìn. Mà cũng lạ, nếu gặp nhau hôm qua hôm kia chắc hai bên sẽ bắn nhau chí chết, còn bây giờ nhìn họ lại thấy thương thương.

Đến khoảng 9 giờ đêm, lính chỉ còn lác đác, còn đại bộ phận là dân Huế bắt đầu cuộc "di tản ngược" về thành phố. Thấy một thiếu phụ một tay bế đứa con nhỏ, một tay kéo theo chiếc va ly to trong khi đứa bé cứ khóc ngằn ngặt, tôi vội chạy lại hỏi xem có cần giúp đỡ gì không. Có lẽ chị ta vẫn còn ngại ngần nên lắc đầu. Nhưng dường như đã quá mỏi mệt nên buộc phải dừng nghỉ ngay gần nơi xe tôi đỗ. Nhìn dáng vẻ mệt mỏi của chị, tôi đoán cả hai mẹ con đều đã mệt và đói lắm nên trèo lên xe lấy bánh lương khô và xách theo cái bi đông nước xuống. Đến gần hai mẹ con, tôi đưa cho chị bánh lương khô và nhẹ nhàng: Chắc cháu bé đói lắm rồi. Chị cho cháu ăn đi. Cả chị nữa, cũng ăn đi!

Thằng bé nhìn thấy lương khô, mắt sáng hẳn lên và ngừng khóc. Chị rụt rè cầm lấy bánh lương khô và buông mấy tiếng thật nhẹ: Cảm ơn ông!

Thuận An - những ngày đầu giải phóng

Chúng tôi tiếp tục trụ lại ở đầu bến phà Thuận An. Ngày hôm sau, người dân Huế vẫn lũ lượt kéo về thành phố. Nghe mấy anh cán bộ nói chuyện, tôi được biết có đến 2 phần 3 dân Huế đã rời thành phố "dạt" về đây. Qua trò chuyện với họ, chúng tôi được biết, họ chạy khỏi thành phố do sợ sẽ bị Mỹ đánh bom như hồi Mậu Thân 1968 mà thôi. Đã nghe nhiều về người Huế nên những ngày này cũng là dịp để cánh lính trẻ chúng tôi để ý xem giữa tiếng đồn và sự thật có giống nhau không? Quả thật, đằng sau những bộ quần áo tồi tàn, đằng sau cái vẻ lam lũ của những ngày ăn ở tạm bợ và nỗi vất vả lo toan - cái "chất Huế" dịu dàng, sâu lắng vẫn hiện ra trong từng câu nói, từng dáng vẻ.

Tranh thủ lúc rỗi rãi, chúng tôi bắt đầu khám phá các thứ xung quanh. Nơi đầu tiên mà tôi để ý là trạm viễn thông. Lần đầu tiên tôi thấy một cái cột ăng-ten cao như vậy, theo ước lượng của tôi nó phải cao hơn trăm mét.

Ngay gần lề đường là một căn nhà xây khá đẹp theo kiểu nhà sàn đứng trên các cột bê tông. Hình như đó chính là nơi trực máy của trạm viễn thông này thì phải. Chúng tôi phá cửa vào và hoa mắt lên vì các loại máy móc. Có lẽ trạm này có nguồn ắc quy hay sao đó nên vẫn thấy có điện. Trong nhà là hàng chục tủ sắt khác nhau, trong ngăn những cái tủ sắt là hàng vốc đèn bán dẫn và nhiều loại phụ tùng thay thế khác.

Chiều hôm đó, anh Thận lệnh cho chúng tôi kiểm kê số phương tiện chiến tranh địch bỏ lại trên đầu bến phà. Thật không thể tưởng tượng nổi - chỉ riêng xe tăng đã 54 cái - chủ yếu là M48 còn khá mới, đạn vẫn đầy ắp trong buồng chiến đấu. Sau này đọc sách thì biết cả một thiết đoàn chiến xa (hình như là Thiết đoàn 20 thì phải) đã chạy về đây. Tôi còn thu được một mớ quân kỳ của thiết đoàn này. Ngoài ra, còn hàng chục xe M113, xe kéo pháo, xe tải, xe con các loại. Lực lượng này mà quyết tâm chống trả thì 6 cái xe T59 và 20 tay súng bộ binh kia có "bõ bèn" gì.

Thấm thoắt thế mà đã 50 năm trôi qua. Anh em chúng tôi cũng đã đôi lần trở lại Huế trong những chuyến thăm lại chiến trường xưa. Thấy Huế vẫn đẹp, vẫn thơ và càng ngày càng văn minh, giàu đẹp hơn, chúng tôi vui lắm. Đặc biệt vừa rồi, Huế đã trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Một cơ hội lớn đã đến với Huế, để Huế cùng cả nước vươn mình trong kỷ nguyên mới.

Đại tá - Nhà văn Nguyễn Khắc Nguyệt - Ảnh: Ngọc Hoa

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/tu-nui-rung-a-luoi-voi-thep-ve-giai-phong-co-do-151977.html
Zalo