Tự hào con cháu Hai Bà Trưng
Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích quốc gia đặc biệt, tọa lạc tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng-những nữ tướng anh hùng đã nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán.
Trước cửa đền Hai Bà Trưng, người dân bán những bó hồng tiểu muội. Một cụ bà nói: “Mới cắt ở vườn, con có thể mua để thắp hương cho Hai Bà Trưng”. Tôi thấy lạ, bởi lẽ trước đền chùa, người ta hay bán bánh kẹo, hoa quả, nhang đèn. Tôi cũng nghĩ đến việc, cũng là phụ nữ, hai bà cũng sẽ thích hoa. Vậy nên, tôi mua 1 bó gồm 50 bông, trang trọng đặt lên ban thờ, cung kính bái vọng để gửi lời tri ân đến những người nữ anh hùng đã làm rạng danh phụ nữ Việt và viết lên trang sử hào hùng của dân tộc ta.

Tác giả (bên trái) trước đền Hai Bà Trưng. Ảnh: T.N.Đ
Lời thề của Hai Bà Trưng được khắc trên tảng đá lớn đặt trước sân: “Thiếp là cháu gái các Vua Hùng đời trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn, nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp…”. Lời thề vang dội non sông, quy tụ các tướng lĩnh từ nam nhi đến nữ tướng, đồng lòng theo hai bà đánh tan quân xâm lược nhà Hán.
Theo sử sách, năm 43 sau Công nguyên, dưới thời bị nhà Hán cai trị, Trưng Trắc và Trưng Nhị là con của lạc tướng huyện Mê Linh. Trưng Trắc có chồng là Thi Sách, cũng là con của lạc tướng ở Chu Diên. Sinh ra phải thời loạn lạc, cha mẹ đã nuôi dạy 2 cô gái học chữ, học võ, ươm tinh thần bất khuất, chống giặc ngoại xâm. Hận nỗi quốc gia bị xâm lăng, thù riêng giặc đã nhẫn tâm giết chồng, Trưng Trắc cùng em gái Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa và được dân chúng ủng hộ.
Trong thời gian ngắn, Hai Bà Trưng cùng với Nhân dân đã lấy 65 thành và giữ được đất nước bình yên trong 3 năm. Dù thời gian ngắn ngủi, không có nhiều thành tựu để lại về việc trị vì nhưng công lao của hai bà vẫn hiển danh trong sử sách. Để từ đó, dân tộc Việt lưu mãi truyền thống “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” như là lời nhắn nhủ đến công lao của Hai Bà Trưng mà các con cháu đời sau noi theo, tiếp bước.
Đền thờ Hai Bà Trưng được xây dựng trong khu vườn rất rộng. Bên ngoài là Đền Trình, sau khi đi bộ qua bức tường có ghi công lao những nữ tướng oai hùng của dân tộc ta qua các thời kỳ thì đến Đền thờ Hai Bà Trưng. Tôi chưa từng đến ngôi đền nào được trồng hoa hồng nhiều như ở đây. Đến độ nở rộ, cả khu vườn ngập trong mùi hồng và sắc hoa đỏ thắm. Những cây cau già cao vút phía trên 2 con voi, tương truyền đó là 2 chú tượng binh đã cùng Hai Bà Trưng ra trận. Trong sân, 2 cây muỗm cổ tỏa bóng.
Đi qua hồ mắt voi là đến đền thờ chính của Hai Bà Trưng. Cũng là cơ duyên, khi tôi đặt bó hoa dâng cúng lên hai bà thì người thủ đền bước vào. Cụ hỏi: “Con có muốn vào trong điện ngắm hai cụ không?”-tôi gật đầu. Sau khi tháo dép, tôi thành kính bước vào gian điện thờ phía trong. Ở đó có kiệu rước, quần áo, hài đỏ, mũ, bệ thờ và 2 tấm vải đỏ che kín bài vị của hai bà. Chắp tay thành kính, tôi ngước nhìn tượng hai bà, cảm nhận được sự hiền lành mà uy nghiêm. Vì là nơi tôn kính nên tôi chỉ được dừng ở điện khoảng 2 phút rồi trở ra.
Bên trong khu quần thể còn có điện thờ các vị nữ tướng đã từng theo Hai Bà Trưng. Tôi đọc danh sách ghi chép thì có đến 97 vị tướng nữ và trên 100 tướng nam dưới trướng. Trong điện thờ các tướng có đặt bia trên lưng rùa bằng chữ Hán, tôi đoán đó là danh sách ghi chép để tên tuổi của họ lưu mãi với non sông, đất nước này. Phía sau là đền thờ thân sinh phụ mẫu, người có công sinh thành, nuôi dưỡng hai bà, nuôi ý chí đánh giặc xâm lăng. Bên phải là đền thờ Thi Sách cùng thân sinh phụ mẫu của ông.
Ngoài ra còn có gác cao phía nhà di tích để du khách có thể đến đọc tài liệu, lịch sử. Đặc biệt, nơi đây còn có bia chiến tích của đồng chí Trường Chinh trong thời gian 1947-1949. Tại đây, đồng chí Trường Chinh đã dùng gốc gỗ lũa làm hộp thư bí mật để liên lạc kháng chiến.
Tưởng nhớ công lao của Hai Bà Trưng, trên khắp cả nước có hơn 100 ngôi đền thờ cũng như các nữ tướng đã theo Hai Bà Trưng chiến đấu. Tiếp nối truyền thống phụ nữ anh hùng, con cháu Hai Bà Trưng đã không ngừng noi theo. Đó là nữ tướng Bùi Thị Xuân, nữ tướng Nguyễn Thị Định… trong thời chiến và những phụ nữ Việt Nam anh hùng, dũng cảm, giỏi giang, những “nữ tướng” trên các lĩnh vực ở thời bình. Dù ở đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, phụ nữ Việt cũng thể hiện được ý chí, năng lực và bản lĩnh của mình.
Đã gần 2.000 năm trôi qua kể từ khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, song ý chí chiến đấu, tinh thần bất khuất của hai bà vẫn chảy trong tâm khảm của những người con đất Việt. Để mỗi ngày tháng 3 về, chúng ta vẫn luôn tự hào về những người phụ nữ anh hùng đã làm rạng danh sách sử Việt Nam.