Từ con rắn trong văn minh lúa nước đến nền nông nghiệp xanh
Với lịch sử gắn liền với nền văn minh lúa nước, tục thờ thần rắn của người Việt với ý nghĩa vật tổ và thủy thần từ bao đời nay vẫn còn nguyên giá trị ước vọng. Tuy nhiên, việc con rắn ngày càng vắng bóng trên đồng ruộng cũng khiến chúng ta nghĩ về những việc cần làm để phát triển nền nông nghiệp hữu cơ; trong đó bao gồm việc duy trì môi trường sống cho các loại rắn và côn trùng có ích cho vườn cây, ruộng lúa.
Nhìn lại vật tổ được thờ cúng từ Bắc chí Nam
Không chỉ ở Việt Nam, tại nhiều quốc gia phương Đông, con rắn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, đồng thời cũng là đối tượng để nhiều dân tộc tổ chức thực hành các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng.
Tại Ấn Độ, thần rắn Naga được tôn thờ từ lâu đời với rất nhiều đền đài và lễ hội. Trong một số nghi thức cúng thần rắn tại quốc gia này, những người tham dự chia phần gạo của mình cho các con rắn sống nhằm cầu mong gặp điều lành, tránh điều dữ. Tương tự, tại các quốc gia có người dân tộc Kh’mer sinh sống, thần rắn Niệk chín đầu được xem là biểu tượng cho thần đất và thần nước, giúp ích cho cuộc sống con người; tượng trưng cho sự phồn thực và bảo vệ nguồn nước và các công trình thủy lợi.
Tại Việt Nam, theo hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa, tục thờ rắn được xem là một trong các tín ngưỡng nguyên thủy gắn liền với hai ý nghĩa chính là vật tổ và thủy thần.
Các nhà nghiên cứu Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu cho rằng, hình tượng con rồng thời Lý “là một con rắn dài, quấn làm nhiều khúc, đầu không sừng và không có râu”. Trong khi đó, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng cho rằng: “Rồng Thăng Long Ðại Việt là loại rồng - rắn, mình tròn trịa và thanh tú, với nhiều khúc uốn lượn nhịp nhàng, là loài có vẩy, ở nước và cũng tượng trưng cho nước, cho mây mưa, vốn là cái nhân tố bận tâm hàng đầu của người dân trồng lúa nước”.
Về mặt ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu cho rằng, người Việt ý niệm hóa về loài rắn qua các danh xưng khác nhau, như: rắn, trăn, chằn tinh, giao long, thuồng luồng, mãng xà… Tùy theo từng bối cảnh, thời điểm lịch sử, những con vật “gốc rắn” được mô tả với những tính cách khác nhau. Ngay cả truyền thuyết thần thoại “con rồng cháu tiên”, thực tế, theo các nhà nghiên cứu, đó là huyền thoại “chim tổ và rắn bố” được hình tượng hóa trở thành mẹ tiên Âu và bố rồng Lạc sinh ra bọc trứng, nở ra trăm con. Bởi các thư tịch cổ ghi chép lại về truyền thuyết này liên quan đến tục xăm mình khi xuống nước để không bị giao long ăn thịt. Sau nhiều thế hệ, giao long - một sinh vật ý niệm từ con rắn - được người Việt thờ cúng như vật tổ và được xưng tôn như loài rồng.
Đối với ý nghĩa coi rắn là thủy thần, theo tìm hiểu từ nhiều tài liệu, từ xưa đến nay tục thờ thần rắn là một trong những tục lệ khá phổ biến và vẫn đang được duy trì ở nhiều địa phương từ Bắc vào Nam.
Tại phía Bắc, đền thờ rắn xuất hiện ở các địa phương khu vực ven sông Hồng, sông Cầu và sông Đuống. Chẳng hạn, ở làng Linh Đàm (xã Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội) hiện nay vẫn duy trì lễ hội thờ vị thủy thần Bảo Ninh với hình tượng rồng-rắn lớn. Tại các làng khác như làng Thủ Lệ, làng Nhật Tân (Hà Nội) đều có tục lệ thờ Linh Lang Đại Vương và Uy Đô Linh Lang, vốn là các vị thần rắn, gắn với thủy thần Hồ Tây.
Đổ vào miền Trung, Tây Nguyên, tục thờ rắn như thủy thần xuất hiện ở các địa phương như Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế. Theo đó, bà con dân tộc Mường tại xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) hiện vẫn duy trì lễ hội thần rắn tại thôn Lương Ngọc. Người dân một số xã thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng lập bài vị thờ hai vị thần rắn là ông Dài và ông Cụt vốn là hai con rắn được tôn xưng là thủy thần, đem lại mưa thuận gió hòa cho các vùng quê.
Tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, đền thờ thần rắn cũng khá phổ biến, gắn liền với các giai thoại về thủy thần tại Đình Rắn (xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre); hoặc thần rắn đền Vĩnh Hòa tại Rạch Giá - Kiên Giang cũng như truyền thuyết về Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười, khi lưu truyền các câu chuyện về “đạo binh rắn” giúp nghĩa quân đánh giặc Pháp đầu thế kỷ trước.
Nghĩ về những cánh đồng hữu cơ
Ở trên là những câu chuyện về con rắn và tín ngưỡng, tục lệ thờ thần rắn trong truyền thống văn hóa và đời sống tâm linh của người Việt. Ở góc độ gần gũi và thực tế hơn, với nhiều thế hệ người nông dân “chân lấm tay bùn”, những con rắn trên đồng ruộng, vườn cây vốn là những sinh vật quen thuộc và ít nhiều có sự gắn bó cộng sinh trong môi trường sống và sinh thái trồng trọt, chăn nuôi.
Nhiều năm về trước, khi nền nông nghiệp ở các địa phương chưa được cơ giới hóa; nhiều cánh đồng, sông rạch, ao đầm chưa bị ảnh hưởng bởi quá trình phát triển đô thị cũng như chưa chịu tác hại đáng kể từ rác thải công nghiệp và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật; rắn, chuột, cua, cá tự nhiên có thể dễ dàng tìm thấy ở khắp các bờ bụi, ruộng vườn. Tuy nhiên, những năm gần đây, với việc lạm dụng quá nhiều các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ làm các loại bò sát, gặm nhấm và côn trùng vốn là thiên địch của các loại sâu bệnh gây hại ngày càng vắng bóng.
Cho đến những năm gần đây, với các đề án tái cấu trúc nền kinh tế nông nghiệp, nhiều địa phương đã bắt đầu chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Theo thống kê, đến hiện nay, cả nước đã có khoảng gần 500.000 hecta sản xuất nông nghiệp hữu cơ được các tỉnh, thành triển khai đối với ngành hàng lúa gạo, rau củ, trái cây và nuôi trồng thủy sản.
Về mặt chủ trương, chính sách, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ và đã được người dân hưởng ứng hiệu quả. Quan sát thực tế tại nhiều mô hình sản xuất lúa hữu cơ, hoa màu hữu cơ tại các tỉnh như Lâm Đồng, Cà Mau, Kiên Giang cho thấy, các mô hình nông nghiệp hữu cơ hiện nay đang được ngành Nông nghiệp các địa phương đánh giá là “cứu cánh” cho môi trường sinh thái và có nhiều tiềm năng để nhân rộng.
Bước sang những ngày đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp xanh, sạch bền vững cũng đang nóng lên từng ngày trên các diễn đàn với những từ khóa như “nông nghiệp xanh”, “kinh tế xanh” “giảm phát thải”, hưởng ứng theo Chỉ thị số 44/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược quốc gia đối với tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030.
Vì thế, có thể thấy rằng, trong những năm tới những cánh đồng xanh, sạch vừa áp dụng các công nghệ hiện đại vừa giữ lại hệ sinh thái môi trường tự nhiên sẽ ngày càng mở rộng. Bằng những giải pháp khả quan, rồi đây, chúng ta có thể kỳ vọng rằng những cánh đồng lúa, vườn cây, đìa cá, vuông tôm sản xuất theo phương pháp hữu cơ dù có phát triển vươn mình ra thế giới với thành tích xuất khẩu hàng tỷ USD thì đâu đó trên bờ ruộng, bụi cây, nương sắn, nương ngô vẫn dễ dàng bắt gặp những con rắn nước, rắn liu điu, rắn săn chuột, rắn hổ trâu và những chim thú, côn trùng quen thuộc với nền nông nghiệp Việt.