Tín ngưỡng thờ Mẫu - thăng hoa nơi cõi tạm
Nhiều tôn giáo, tín ngưỡng thường hướng đến sự giải thoát ở kiếp sống khác. Nhưng tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ phủ của người Việt lại mang đến cho con người những giá trị thăng hoa nơi cõi tạm.
"Cái gì hợp lý thì tồn tại, cái gì tồn tại thì hợp lý"
Nhà triết học Hegen.
Và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt vẫn đang tồn tại, phát triển và được bảo tồn cho đến ngày nay.
Ngày 1/12/2016, tại thành phố Addis Ababa, Ethiopia, Phiên họp Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO đã chính thức công nhận Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ rất lâu đời và được truyền lại cho đến tận bây giờ, khó có thể xác định được thời điểm ra đời của tín ngưỡng này. Nó xuất phát từ tục thờ nữ thần, từ sự tôn kính, tôn trọng dành cho những người phụ nữ. Tín ngưỡng thờ Mẫu ngày càng giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh - văn hóa của người Việt.
Thờ Mẫu chính là thờ những vị thần đại diện cho sức mạnh của thiên nhiên, con người, được cả cộng đồng tôn vinh, có công với đất nước, thỏa mãn trong ước mơ của người dân cầu mong sự may mắn, hạnh phúc và che chở cho con người những lúc gặp khó khăn hoạn nạn.
Thứ nhất, xuất phát từ lòng tôn kính của người dân Việt, tôn vinh những giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ, là những người giữ vai trò quan trọng không chỉ trong xã hội mà còn cả trong gia đình. Thờ Mẫu thể hiện sự tôn vinh, coi trọng những giá trị của người phụ nữ, giải phóng những bất công, trói buộc dành cho những người phụ nữ.
Thứ hai, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ quan niệm tâm linh của con người. Bản chất của mỗi con người đều có rất nhiều nỗi lo âu trước sự nguy hiểm đến với chính mình. Chính vì thế, con người có tâm lý sợ hãi trước những thế lực siêu nhiên mà họ quan niệm luôn tồn tại trong cuộc sống. Họ cần những vị thần có thể chở che và bảo vệ được họ trước những hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống. Đó là những vị thần linh có sức mạnh đủ để trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc cho họ.
Ta có thể thấy rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ chính quan niệm của người Việt. Trong từ điển, "Mẫu" tức là mẹ, là những người phụ nữ, là giống cái, đặc trưng cho tính âm. Tính âm đem lại sự hài hòa và trường tồn, bảo vệ và che chở, giống như một người mẹ đang che chở cho những đứa con của mình trước những khó khăn, thiên tai, dịch bệnh. Vì vậy tín ngưỡng thờ Mẫu đã đem lại niềm tin cho người Việt về sự bảo vệ, phù hộ của thần linh trong cuộc sống. Người ta đến với Mẫu như đến với người mẹ có thể bảo vệ, tránh được những điều không may mắn, tìm được những niềm vui và niềm hạnh phúc dành cho mình.
Thứ ba, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, ta thấy xuất hiện những vị thần đại diện cho thiên nhiên. Tín ngưỡng này đã bước đầu chứa đựng những yếu tố, nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất bốn miền: miền trời (Mẫu Thiên), miền đất (Mẫu Địa), miền sông biển (Mẫu Thoải), miền rừng núi (Mẫu Thượng Ngàn), đó là những vị thần đại diện cho tự nhiên, đại diện cho những miền quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến con người và đến đời sống sinh hoạt, hoạt động sản suất của con người. Và những vị thần sẽ có sức mạnh, quyền lực để giúp cho con người mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu tươi tốt.
Như vậy, trải qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu không ngừng phát triển trên khắp đất nước Việt Nam, đặc biệt thể hiện rõ nhất là ở miền Bắc của Việt Nam. Ở miền Bắc, những nơi như Phủ Dầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu diễn ra thường xuyên, liên tục. Các nghi lễ này phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự phong phú, đa dạng trên từng vùng miền đất nước.
Có thể nhận thấy truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" luôn được dân tộc ta tôn thờ từ ngàn đời nay. Đó là sự tôn thờ của nhân dân đối với những người có công với đất nước, với dân tộc. Đây là đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nét văn hóa đó được thể hiện ở ba cấp độ văn hóa: gia đình, làng xã, quốc gia dân tộc. Tôn vinh những danh nhân văn hóa, các anh hùng dân tộc hay các đối tượng thờ tự của các tôn giáo tín ngưỡng. Dù ở hình thức nào, nó cũng là những sản phẩm văn hóa hoàn chỉnh, khoa học và thẩm mỹ, thỏa mãn nhu cầu tâm linh của quần chúng nhân dân. Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng thờ cúng điển hình trong các đối tượng thờ cúng tại Việt Nam.
Nếu như Đạo Phật hay Thiên Chúa giáo hướng con người về một thế giới sau cõi thực như thiên đàng hay địa ngục, thì tín ngưỡng thờ Mẫu lại hướng con người trở về đúng với những giá trị thực tại trong thế giới thực, một thế giới mà ở đó con người cần tiền tài, sức khỏe, phúc lộc và thọ trường... Chính điều này đã giúp hình thành nên một nhân sinh quan tích cực, phù hợp với quan niệm hiện sinh của con người trong thế giới hiện đại.
"Tháng tám tiệc cha, tháng ba tiệc mẹ" một câu quen thuộc về những ngày lễ trọng đại trong tín ngưỡng mà người ta thường nhắc nhở nhau để nhớ về nguồn cội. Tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn từ chính cuộc sống trần thế bởi chính những điều mà người ta cầu xin đều là những sự khẩn cầu, sự ngưỡng vọng về một phép màu dành cho cuộc sống nơi trần thế của họ. Chẳng hạn như khi ốm đau bệnh tật, người ta nương nhờ tài phép cô Bơ làm thần phù và bắt ấn.
Cũng có khi người ta muốn cầu xin về công danh, tài lộc, cho công việc thuận buồm xuôi gió, người trần thế lại nương nhờ nơi bóng của quan Hoàng Mười. Xin lộc đất cát người ta lại kêu cầu cửa ông Hoàng Bảy, đến cửa cô Chín người ta cầu mong cho mặt hoa da phấn, mặt phấn da hường, cho buôn may bán đắt… Đó là giá trị đáp ứng nhu cầu và khát vọng của con người trong cuộc sống trần thế. Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ khát vọng của con người về cuộc sống ấm no, hạnh phúc, là nét đẹp trong văn hóa tâm linh thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam.
Thờ Mẫu là tập tục thờ cúng các vị nữ thần có từ thời nguyên thủy đại diện cho thiên nhiên như mẹ Đất, mẹ Nước, mẹ Lúa… bởi trong quá trình mưu sinh tìm nguồn sống, con người luôn phải dựa vào thiên nhiên, đất trời. Vì vậy họ đã tôn thờ các hiện tượng tự nhiên như đấng tối cao là Mẫu và thờ Mẫu, với mong muốn Mẫu sẽ bảo trợ và che chở cho cuộc sống của họ được bình an, no ấm. Sức mạnh và ý nghĩa của tín ngưỡng Thờ Mẫu chính là thỏa mãn nhu cầu và khát vọng của con người về sức khỏe, bình an, làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn, hướng con người ta đến với lòng từ bi bác ái, là nền tảng của đạo đức xã hội, nguyên tắc ứng xử giữa người với người.
Do đó, tín ngưỡng thờ Mẫu chính là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng các vị nữ thần được cho là có khả năng siêu phàm, có thể điều khiển được các hiện tượng tự nhiên mang tính quy luật nhằm bảo trợ và che chở cho sự sống của con người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ mang trong mình giá trị lịch sử sâu sắc, là một kho tàng lịch sử truyền thống vẻ vang của dân tộc với những sự tích các vị anh hùng và những chiến công oanh liệt của nhân dân ta.
Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn người sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Giúp vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu
Bản văn này nói về Chầu Mười Đồng Mỏ trong Tín ngưỡng thờ Mẫu, được dùng để hát hầu giá Chầu Mười khi lên đồng, vị nữ thần có công đánh giặc Minh ở vùng Chi Lăng, Đồng Mỏ, Lạng Sơn.
Bên cạnh đó, cũng có những bài nói về Chầu Bát trong Tín ngưỡng thờ Mẫu. Theo tương truyền thì Bát Nàn tên là Vũ Thục Nương, người trang Phượng Lâu (nay là xã Phượng Lâu, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) một trong 6 nữ tướng giỏi nhất trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Sự tích oanh liệt đó được khắc họa trong những bản chầu văn hào hùng như nhắc nhở cháu con nhớ về nguồn cội.
Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu như một tấm bảng vàng ghi chép lại những công lao to lớn của của những nhân thần và thánh thần có vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Đến với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ không chỉ là đến để ngưỡng vọng về một đấng tối cao nào đó hư vô không có thật, mà là đến để tìm về cội nguồn của một đất nước với truyền thống ngàn năm văn hiến. Đạo Mẫu, thông qua các ký ức, các truyền thuyết và huyền thoại, các nghi lễ đã thể hiện rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của mình.
Trên thực tế, có những hình tượng của các vị thần được xây dựng từ những nhân vật có thật trong lịch sử như Trần Hưng Đạo - Đức Thánh Trần, Lê Khôi, Nguyễn Xí - ông Hoàng Mười, Vũ Thị Thục Nương - Chầu Bát Nàn… Cũng có những vị thánh thần vốn là những vị thần thiên nhiên, thần bản cảnh có công trạng, sự nghiệp của riêng từng địa phương được nhân thần hóa, lịch sử hóa. Cũng chính vì vậy, Đạo Mẫu đã gắn bó với cội nguồn và lịch sửa của dân tộc ta, hình thành và phát triển như một biểu tượng của chủ nghĩa Việt Nam anh hùng.
Trước hết phải kể đến nghệ thuật kiến trúc cổ và nghệ thuật sân khấu dân gian. Thông qua nghệ thuật kiến trúc cổ chúng ta thấy được hình bóng nghệ thuật dân gian in đậm màu sắc Việt Nam trong từng hoa văn được chạm khắc tinh tế, trong những bức tượng cổ hay những bức tranh mang đầy màu sắc đặc trưng.
Nói đến giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất phải kể đến nghệ thuật sân khấu dân gian trong Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu mà cụ thể là nghi thức hầu đồng, trong đó gắn liền với nghệ thuật hát chầu văn - một loại hình nghệ thuật được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia của người Việt. Tất cả những yếu tố dân gian, những vẻ đẹp truyền thống đặc sắc nhất của người Việt được thể hiện hết qua từng chi tiết trong những giai điệu, lời văn trong âm nhạc.
Có thể nói hầu đồng là loại hình sân khấu nghệ thuật được tâm linh hóa, bởi vậy nó không chỉ đáp ứng được giá trị nghệ thuật đặc sắc nó thể hiện mà còn thỏa mãn nhu cầu tâm linh của một số bộ phận dân chúng. Như vậy chúng ta không thể phủ định được những giá trị đặc sắc mang đậm bản sắc Việt cũng như sức sống mãnh liệt mà loại hình nghệ thuật trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại.
"Chiếc áo không làm nên thầy tu" nhưng trang phục hầu đồng lại là yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên nét linh thiêng trong nghi lễ và sự thăng hoa của các thanh đồng. Không phải ngẫu nhiên mà trang phục hầu đồng lại được nhân dân ta tôn kính, gọi với một cái tên thật mĩ miều là "khăn chầu áo ngự". Với tâm niệm các Ngài là bậc bề trên tôn quý, trang phục được dùng để hầu Thánh thường là những bộ khăn áo mang đậm tính cung đình, thể hiện được phong thái tôn quý của nhà Thánh, được các thanh đồng cất giữ rất cẩn thận và có nghi thức khai quang trước mỗi giá hầu.
Sự chú trọng và cầu kì về khăn áo không chỉ thể hiện tấm lòng tôn kính của con người với bậc bề trên, mong muốn mang đến những điều tốt đẹp nhất khi thực hiện nghi lễ, mà thông qua những chi tiết và hoa văn, chúng ta còn thấy được nét văn hóa truyền thống độc đáo rất riêng của người dân đất Việt được truyền lại từ bao đời.
Sự độc đáo của văn hóa vùng miền thể hiện rất rõ qua trang phục các giá thuộc Nhạc phủ. Hầu hết các vị đều là những người thuộc dân tộc miền núi như dân tộc Mán (Chầu đệ nhị thượng ngàn), người Nùng (Chầu Lục), người Mường (Cô đôi thượng ngàn)… nên khi tái hiện các Ngài, các thanh đồng đều cố gắng thể hiện dáng vẻ gần gũi đời thường và đúng nhất đặc điểm của dân tộc vùng cao, như mặc áo cõn, eo đeo xà tích, vòng đeo cổ bạc, đầu chít khăn củ ấu, chân quấn xà cạp, tay múa mồi và làm những hoạt động như lên nương làm rẫy, lên rừng hái thuốc…
Chính sự kết hợp tài tình và khéo léo giữa nét đẹp văn hóa vùng đồng bằng và những dân tộc miền núi của các cụ khi xưa đã góp phần tạo nên tính đa dạng và độc đáo của tín ngưỡng, đồng thời qua đó củng cố sự đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, các vũ điệu không chỉ đơn thuần là những màn trình diễn nghệ thuật mà còn chứa đựng giá trị tâm linh sâu sắc, mang ý nghĩa kết nối giữa con người với thần linh và tái hiện những câu chuyện linh thiêng trong văn hóa dân gian. Mỗi vũ điệu là một biểu tượng sinh động, phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ, đồng thời khắc họa sự hiện diện và công trạng của các vị thánh Mẫu cùng các nhân vật thần thoại trong tín ngưỡng.
Vũ điệu trong nghi lễ hầu đồng được xem là một phương thức giao tiếp giữa thanh đồng và các đấng linh thiêng. Trong trạng thái xuất thần, thanh đồng thực hiện các động tác múa như một cách thể hiện lòng thành kính và tôn vinh các vị thánh. Mỗi cử chỉ, mỗi bước chân và cách sử dụng đạo cụ như quạt, khăn, kiếm, đều mang những ý nghĩa biểu tượng riêng, thể hiện sự trang nghiêm, quyền uy hoặc lòng từ bi của các thánh.
Các vũ điệu cũng được sử dụng để tái hiện câu chuyện về cuộc đời và những công trạng của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Chẳng hạn, vũ điệu của miền Thoải - biểu tượng của nước, thường mang phong thái mềm mại, uyển chuyển như dòng sông. Ngược lại, vũ điệu các Quan lớn lại thể hiện sự mạnh mẽ, uy nghi, tượng trưng cho quyền lực và tinh thần bảo vệ dân lành. Mỗi điệu múa đều được dàn dựng công phu, từ trang phục lộng lẫy mang màu sắc đặc trưng của từng vị thần đến âm nhạc nền mang đậm âm hưởng dân gian, góp phần tạo nên không gian linh thiêng và trang trọng.
Không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, các vũ điệu trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn là di sản văn hóa nghệ thuật độc đáo. Chính nhờ sự kết hợp tinh tế giữa yếu tố tâm linh và nghệ thuật, các vũ điệu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ đã góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của di sản này, làm nên sức hấp dẫn không chỉ đối với người Việt mà còn với bạn bè quốc tế. Những động tác múa vừa mềm mại, vừa uy nghiêm chính là ngôn ngữ không lời, đưa người tham gia và người chứng kiến bước vào một thế giới kỳ ảo, nơi văn hóa và tâm linh hòa quyện một cách trọn vẹn.
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tuy nhiên song song với niềm tự hào đó, chúng ta lại phải đối mặt trước những nguy cơ biến tướng, lợi dụng tín ngưỡng Thờ Mẫu để trục lợi, tuyên truyền mê tín dị đoan. Đặc biệt là nghi lễ hầu đồng - một trong những thành tố đặc biệt, nghi thức cơ bản trong Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu, nghi thức này đang đứng trước nguy cơ bị lợi dụng làm mất đi giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa Việt.
Nghi lễ hầu đồng đưa những nhân vật dân gian như ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười trở nên gắn bó, gần gũi trong đời sống tâm linh của người Việt. Tuy nhiên trong thời gian gần đây trên mạng xã hội xuất hiện những clip thanh đồng ăn mặc phản cảm, tư thế thực hành tín ngưỡng không đứng đắn được lan truyền tràn lan.
Lệch chuẩn từ trang phục, đạo cụ, văn hầu cho đến vũ đạo, thậm chí có những thanh đồng đưa cả hò hét, phán truyền bói toán, bắt ma… vào các canh hầu. Có những nơi, một giá hầu đồng đốt gần 200 triệu đồng tiền vàng mã, xuất hiện nhiều vàng mã kỳ lạ, thậm chí có vấn hầu lên đến 100 triệu đồng, tiền ban phát lộc duy nhất chỉ một tờ 500 nghìn đồng, gọi là hiện tượng "đồng đua", "đồng đú" gây tốn kém. Những hiện tượng "Cô đồng ngửi cau", "Cô đồng bát nước" cũng đã gây bão mạng xã hội một thời gian.
Tuy nhiên, giữa dòng chảy hình ảnh và thông tin chưa đẹp, tín ngưỡng thờ Mẫu, cụ thể là diễn xướng hầu đồng đang dần được các bạn trẻ ưa thích khám phá. Diễn xướng hầu đồng còn xuất hiện mọi lúc, mọi nơi… Các bản văn trong tín ngưỡng cũng được làm mới, biến tấu như một cách để quảng bá văn hóa tín ngưỡng tốt đẹp.
Trong thời đại hội nhập và phát triển, vai trò của giới trẻ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ ngày càng trở nên quan trọng. Tín ngưỡng này không chỉ là biểu tượng của đời sống tâm linh người Việt, mà còn là kho tàng di sản văn hóa phi vật thể quý giá được UNESCO công nhận.
Giới trẻ ngày nay, với sự nhạy bén và sáng tạo, đã mang đến những làn gió mới trong việc gìn giữ và lan tỏa tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều bạn trẻ tích cực tìm hiểu các nghi lễ hầu đồng, nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống thông qua việc tham gia thực hành, ghi chép và lan tỏa những thông điệp ý nghĩa trên các nền tảng mạng xã hội.
Bên cạnh đó, việc các bạn trẻ tham gia các câu lạc bộ nghiên cứu văn hóa dân gian, các chương trình bảo tồn di sản, cũng như tổ chức các buổi hội thảo, triển lãm về tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần tạo dựng một cộng đồng yêu văn hóa mạnh mẽ. Sự kết hợp giữa tinh thần truyền thống và sức trẻ đã mở ra những cơ hội mới để tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ được giữ gìn mà còn phát triển trong lòng xã hội hiện đại.
Giới trẻ, với lòng đam mê và trách nhiệm chính là chiếc cầu nối giữa quá khứ và tương lai, giúp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ trường tồn và tiếp tục tỏa sáng trong đời sống văn hóa của dân tộc.
Tuy nhiên nên vạch định rõ ràng trong quá trình quảng bá, bảo tồn cái gì nên, cái gì không. Hầu đồng bây giờ có thể bắt gặp ở khắp nơi: hội diễn, hội thi, các sân khấu văn nghệ, tiệc công ty cuối năm… Điều này là tốt bởi đây cũng là một hình thức quảng bá tín ngưỡng. Tuy nhiên nên cẩn thận và chuẩn chỉ hơn để khi quảng bá tín ngưỡng người xem thấy được cái tốt đẹp, nhân văn, nhân bản sâu sắc trong tín ngưỡng. Quan trọng nhất là phải đúng.
Đúng thứ nhất là trang phục. Ví dụ Diễn xướng giá hầu cô Đôi phải sử dụng đúng trang phục cô đôi. Không phải diễn xướng hầu đồng cô Đôi mà lại mặc áo Chầu Nhị, Chầu Bé. Đó là bản sắc, là giá trị, là nguồn gốc của tín ngưỡng. Quảng bá phải tìm hiểu, phải chuẩn chỉ để không làm sai lệch văn hóa.
Thứ hai, cần phân định rõ ràng giữa hình thức diễn xướng hầu đồng và thực hành nghi lễ hầu đồng. Nó khác nhau về mục đích, về môi trường, về ý nghĩa. Thế nên có những nghi thức trong nghi lễ vốn dĩ chỉ nên xuất hiện trên sập hầu. Những nghi thức như dâng hương, khai quang… là những nghi thực cao quý, tôn kính. Trong quá trình chúng ta diễn xướng, nên chọn lọc, hiểu được cái gì nên, cái gì không nên. Vì suy cho cùng giữa diễn xướng và thực hành tín ngưỡng là hai khái niệm được tách biệt rạch ròi với nhau. Diễn xướng hầu đồng không là thực hành tín ngưỡng. Nó là cách mà người ta chọn lọc văn hóa để giới thiệu và quảng bá chúng.
"Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước."
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bảo tồn giá trị nhân văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu sẽ là một chặng đường dài, cùng với đó là những khó khăn, thách thức phía trước đối với dân tộc ta. Tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ lưu giữ tinh hoa văn hóa mà còn lưu giữ những thành tựu văn hóa mà ông cha ta đã dày công nghiên cứu, tạo dựng.
Văn hóa tín ngưỡng cũng như lời Bác từng nói, ông cha ta đã có công tạo dựng, phát huy giá trị tín ngưỡng thờ Mẫu từ đời này sang đời khác và thế hệ ngày nay phải cùng nhau bảo tồn, gìn giữ, phát huy được văn hóa ấy sống mãi với thời gian.
Hành trình bảo tồn Thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ là một quá trình lâu dài. Thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ trước hết là một giá trị đẹp. Mà đã đẹp, chắc chắn là ai cũng sẽ muốn khám phá. Tuy nhiên, khám phá ở mức độ nào cho đúng, cho đủ, không sai lệch để làm mất đi vẻ đẹp và giá trị mà ông cha ta đã gìn giữ từ ngàn đời là một điều không thể dễ dàng. 8 năm cho một hành trình, những giá trị tốt đẹp kia đang dần được đến gần với các giới trẻ để nhiều bạn trẻ hiểu hơn, yêu hơn và đam mê hơn. Có hiểu, có yêu chính những giá trị văn hóa tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc thì những giá trị ấy mới có cơ hội lưu truyền đến thế hệ mai sau.