Tự chủ ngành công nghiệp để tăng tỷ lệ nội địa hóa
Theo số liệu thống kê sơ bộ, tỷ lệ nội địa hóa ở một số ngành của Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 5 - 10%. Để có thể trở thành ngành công nghiệp tự chủ, có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có giá trị gia tăng cao, điều kiện tiên quyết đến từ việc tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Tỷ lệ nội địa hóa thấp
Với ngành nghiệp ô tô, theo thống kê sơ bộ từ Cục Công nghiệp (Bộ Công thương) nước ta đang phải nhập khẩu 80% linh kiện sản xuất. Hiện cả nước có 377 DN ô tô, trong đó có 169 doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), chiếm tỷ lệ 46,43%. Điều này phản ánh thực tế số lượng nhà sản xuất, cung ứng trong nước cho ngành công nghiệp ô tô còn khá khiêm tốn. Tổng số sản phẩm trong ngành này là 1.221, trong đó đa số là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị của một chiếc ô tô. Những linh kiện quan trọng, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao như hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái... vẫn phải nhập khẩu hoàn toàn.

Lắp ráp các dòng xe tải tại Nhà máy THACO. Ảnh: Hạ Lan
Trong khi đó, đối với ngành điện tử, thực trạng cũng không sáng sủa hơn. Bà Đỗ Thị Thúy Hương - Ủy viên Hiệp hội DN điện tử Việt Nam (VEIA) thừa nhận, tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử còn thấp; các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng linh kiện ngoại; DN công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử dù đã tham gia vào chuỗi giá trị của ngành, nhưng mới cung cấp được các sản phẩm đơn giản, có giá trị hàm lượng công nghệ thấp.
Chia sẻ dưới góc độ DN, bà Lê Thị Mỹ Loan - Trưởng phòng kỹ thuật Công ty TNHH Sharp Manufacturing Vietnam (Sharp Việt Nam) cho biết, hiện có nhiều linh kiện, thiết bị mà DN trong nước chưa thể cung ứng cho Sharp, nên dù có nhà máy tại Việt Nam, nhưng thương hiệu này phải nhập tới 50% linh kiện phụ trợ từ nước khác. Nói về bất lợi của các DN cung ứng nguyên liệu tại Việt Nam, bà Loan cho rằng, bên cạnh yếu về chất lượng, hiện Việt Nam có nhiều sản phẩm linh kiện không làm kịp tiến độ theo đơn đặt hàng của Sharp. Ví dụ, một khuôn ép làm tại Thái Lan, Trung Quốc chỉ mất 40 ngày, thì ở Việt Nam phải tốn tới 60 ngày.
Phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), vướng mắc của nền công nghiệp Việt Nam nằm ở việc nội lực còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc quá lớn vào các DN FDI. Các DN FDI chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt, đối với các ngành xuất khẩu chủ lực như điện - điện tử, dệt may, da giày, số lượng DN FDI chỉ khoảng 20% trên tổng số DN nhưng lại chiếm tới hơn 80% kim ngạch xuất khẩu.
Trong khi đó, theo bà Trương Thị Chí Bình - Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), để tăng tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp phải có chế tài đủ mạnh để các DN FDI thực hiện được tỷ lệ nội địa hóa, liên doanh với các DN trong nước sản xuất linh kiện, phụ kiện; đưa ra các tiêu chí và biện pháp khuyến khích cũng như chế tài xử phạt những DN FDI không thực hiện đúng cam kết về tỷ lệ nội địa hóa. Chính phủ và các ban, bộ, ngành liên quan cần tiếp tục quyết liệt và quyết liệt hơn nữa để các DN FDI cam kết nội địa hóa. Đồng thời, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước để giữ chân dòng vốn FDI.
Để đẩy mạnh nền công nghiệp mang tính tự chủ, vững mạnh, thời gian tới ngành cần tiếp cận công nghệ sản xuất hiện đại, xây dựng những tập đoàn kinh tế đủ mạnh dẫn dắt các ngành công nghiệp và công nghiệp phụ trợ. Song song với phát triển công nghiệp nền tảng, cần phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp khác như: Công nghiệp hỗ trợ, cơ khí, hóa chất và công nghiệp vật liệu…