Trường Thuốc ngày ấy
Theo tài liệu của Trường Đại học Y Dược TPHCM, năm 1947, Trường Đại học Y khoa Sài Gòn được thành lập, như một phân hiệu của Trường Y khoa Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - nguyên giảng viên chính giảng dạy bộ môn Dược lâm sàng, Phó ban Nghiên cứu khoa học - Thư viện, Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược TPHCM không khỏi xúc động khi kể lại những kỷ niệm từ nơi bản thân đã học và dạy.
Những xui khiến trong lựa chọn
Sau khi thi đỗ Tú tài II, chàng trai Nguyễn Hữu Đức (sinh năm 1952) chưa từng nghĩ sẽ vào Trường Đại học Dược khoa mà mong ước thi đỗ vào Trường Đại học Y. Tuy nhiên, với những lý do mà được cho là “xui khiến trong lựa chọn”, ông đã theo học tại trường Dược.
PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - nguyên giảng viên chính giảng dạy bộ môn Dược lâm sàng, Phó ban Nghiên cứu khoa học - Thư viện, Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược TPHCM. Ngoài công việc chính, ông còn cộng tác thường xuyên với các tờ báo và tạp chí với vai trò tác giả, chuyên gia tư vấn về lĩnh vực thuốc và sức khỏe.
Đó là, với mộng tưởng bước chân được vào trường Y, trong một lần ngồi học bài chuẩn bị thi Tú tài, Nguyễn Hữu Đức ngồi vẽ hình “cái ly và con rắn” trong sổ tay. Nhưng thực ra, đây là biểu tượng xuất hiện trên bảng hiệu của các pharmacie - tức là các hiệu thuốc tây, dược phòng ở Sài Gòn thời đó.
Hồi đó, ông thi đại học khi có sự thay đổi trong tuyển sinh của Trường Đại học Y khoa Sài Gòn (khi đó gọi là Trung tâm Giáo dục Y khoa Sài Gòn). Tuyển sinh vào trường Y cũng giống như bao trường đại học khác, đậu xong Tú tài II, anh chị “Tú” có thể nộp đơn dự thi vào trường này.
“Tiếc thay, lúc tôi dự tính dự thi vào trường Y thì có quy chế mới. Muốn học Y, người dự thi phải học và thi đỗ các chứng chỉ Lý, Hóa, Khoa học tự nhiên (SPCN) của Trường Đại học Khoa học Sài Gòn (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên). Như vậy, nếu muốn học Y tôi phải học một năm tại Trường Đại học Khoa học Sài Gòn, đỗ các chứng chỉ SPCN, nộp đơn thi vào trường Y và nhất định phải thi đỗ.
Thời cuộc lúc đó không yên lành để tính toán dài dòng như vậy, tôi nộp đơn thi vào hai trường là Dược và Nông Lâm Súc. Tôi làm bài thi khá tốt và đỗ cả hai trường nhưng đã quyết định theo học tại trường Dược”, ông nhớ lại.
Với danh xưng sinh viên năm nhất Dược khoa, ông Đức học đúng lúc cải tổ giáo dục Dược khoa ở miền Nam. Khi ấy giảng dạy Dược khoa không dùng tiếng Pháp, thầy cô chuyển qua dạy tiếng Việt. Đây cũng là năm học đầu tiên không còn tập sự 6 tháng ở các dược phòng (nghĩa là “stage” ở các “pharmacie” bên ngoài trường) mà thực tập tại phòng thí nghiệm Bào chế Cổ truyền (nay là bộ môn Bào chế).
Tất cả môn lý thuyết cuối năm thi viết chứ không như các niên khóa trước một số thi vấn đáp, một số thi lý thuyết. Đặc biệt, đến cuối năm thứ tư, sinh viên phải chọn 1 trong 3 chuyên ngành của năm thứ năm. Việc lựa chọn chuyên ngành tùy thuộc vào điểm thi cuối năm thứ tư.
20 sinh viên đạt điểm thi cao nhất sẽ chọn chuyên ngành Dược khoa kỹ nghệ, 40 sinh viên điểm cao tiếp theo chọn Dược khoa kỹ thuật thí nghiệm. Số sinh viên còn lại đương nhiên chọn Dược khoa cộng đồng - chuyên ngành đào tạo các dược sĩ hành nghề tại các pharmacie, lúc ấy gọi bằng tiếng Việt là dược phòng.
Năm 1973 - 1974, Nguyễn Hữu Đức có tên trong danh sách sinh viên thuộc chuyên ngành Dược khoa cộng đồng. Lúc bấy giờ, nhìn lại trang vẽ lúc đầu về biểu tưởng “cái ly và con rắn”, ông tự hào mình đã chọn đúng ngành, nghề và việc “xui khiến” này rất lành. Bởi lẽ, trước khi biết Dược khoa cộng đồng, ông tâm niệm “cố giúp người dùng thuốc sao cho hợp lý, an toàn và hiệu quả”, đây cũng chính là mục tiêu của Dược khoa cộng đồng.
Không giấu nổi xúc động, ông kể về người thầy Huỳnh Ngọc Thiện - môn Quản trị dược phòng - đã truyền giảng kiến thức bằng tất cả lòng say mê nghề để ông có thể yêu mến khái niệm Dược cộng đồng.
Đến giờ, dù thời sinh viên đã trải qua rất lâu nhưng PGS.TS Nguyễn Hữu Đức nhớ như in câu nói của thầy Huỳnh Ngọc Thiện: “Hãy yêu thương người phải đến pharmacie mua thuốc, vì mua thuốc là việc bất khả kháng và phải mua mà không hề trả giá”.
Chuyển giao mang tính lịch sử
Với thành tích đỗ các môn ở năm thứ nhất, tưởng chừng có khoảng thời gian nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái trước khi bước vào năm học thứ hai, nhưng tất cả sinh viên phải xa nhà, xa trường để học “quân sự học đường” - đây là yêu cầu của thời chiến miền Nam sau Mậu Thân 1968.
Tất cả sinh viên khăn gói đến Trung tâm huấn luyện Quang Trung - nơi huấn luyện đào tạo binh sĩ trước khi đưa ra chiến trường của quân đội miền Nam để được “huấn nhục” và học bắn súng M-16. Theo đó, “huấn nhục” nghĩa là được huấn luyện không khác gì các tân binh thuộc Bộ binh, Nhảy dù hay Biệt động quân. Tuy nhiên, đối với sinh viên học quân sự học đường, việc học khá nhàn nhã…
PGS.TS Nguyễn Hữu Đức kể, trong lớp có bạn là con của đô đốc hải quân nên cả lớp được du ngoạn Nha Trang bằng tàu Hải quân Dương vận hạm HQ-503. Khẽ mỉm cười, ông kể về lần vô tình sửa nón tại bãi tập bắn nhưng sĩ quan cấp cao của quân trường chạy xe Jeep ngang qua tưởng ông chào cấp trên nên nghiêm chỉnh chào lại.
Từ đó, nhiều sinh viên trường khác tưởng ông là con của một lãnh đạo nào đó mới được sĩ quan cấp cao chào. Niềm tin đó được củng cố hơn khi một bạn sinh viên ở Đại học Cần Thơ xem chỉ tay cho ông trong giờ giải lao và khẳng định ông có người thân làm chức lớn.
“Thật ra, tôi chẳng có người thân nào làm lớn cả, cha đẻ làm “barman” bán rượu ở nhà hàng từ thời Pháp thuộc, còn cha dượng là viên cảnh sát quèn ở bót gác Chợ Quán”, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức tâm sự.
Trong mọi sinh hoạt ở quân trường, sinh viên đều ngang hàng nhưng đến giờ ăn thì chia thứ bậc. Việc ăn uống ở quân trường thường được kể rất tệ. Nghe đến ăn cơm “cá mối” ai cũng nghĩ đến sự tệ hại. Cá mối là tên gọi cá biển đủ loại được muối và chiên giòn là thức ăn chủ yếu của tân binh và sinh viên.
“Tuy nhiên, tôi đã ăn và cảm thấy ngon. Hình như người sợ ăn cơm quân trường do nghe đồn gây ấn tượng, chứ không lẽ nuôi quân đánh đấm khi đó mà chính quyền lại cho ăn quá thiếu thốn. Để biết gia cảnh sinh viên giàu có, người thân làm lớn hay không cứ nhìn vào bữa ăn của họ.
Sinh viên “quý tộc” không chịu ăn cơm “cá mối” mà tận hưởng đồ hộp mang theo. Dòng dõi “quý tộc” càng cao thì đồ hộp mang theo càng cao cấp. Tôi không chỉ thấy ăn cơm “cá mối” ngon mà từ lúc đó, về mặt dinh dưỡng, tôi biết cá mối không tươi nhưng vẫn tốt hơn đồ hộp nhiều”, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức chia sẻ.
Tiếp nối truyền thống giảng dạy và cứu người
Đầu tháng 5/1975, Ban Quân quản Đại học Dược khoa đến tiếp nhận để trường tiếp tục hoạt động. Khi đó, chàng sinh viên Nguyễn Hữu Đức mới thi tốt nghiệp. Mặc dù được phân công giảng dạy tại chính ngôi trường có nhiều năm miệt mài đèn sách, tuy mức lương không nhiều, thời gian bận rộn soạn bài giảng, tham gia nghiên cứu trong bộ môn của trường nhưng ông vẫn dành nhiều thời gian cho những việc bản thân ưa thích. Thông thường, ông vẽ những bức tranh biếm họa hay viết văn, sáng tác nhạc.
Theo ông, đây là việc tay trái, làm vì vui là chính nhưng cũng góp phần tăng thu nhập nhờ các khoản nhuận bút. “Mặc dù thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần tôi phong phú. Do đó, tôi lựa chọn gắn bó với trường trong công tác giảng dạy, rồi dần trở thành “nghề” và “nghiệp” của mình”, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức nói.
Nói về cơ duyên theo nghề Y của ông và các con, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức cho rằng, bản thân chưa bao giờ bắt ép con theo học điều mình mong muốn. Con trai ông vốn học giỏi Hóa và có thời gian theo học tại Singapore để theo đuổi mơ ước của mình. Năm 2006, một biến cố ập đến, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức bị xuất huyết não.
Vì sợ không còn cơ hội nói với con nên ông quyết định chia sẻ mong muốn con trai có thể làm bác sĩ. Và người con trai đã không phụ lòng mong mỏi của cha, quyết định thi lại vào Trường Đại học Y Dược TPHCM. Hiện, anh là giảng viên, bác sĩ tại ngôi trường Thuốc Sài Gòn ngày ấy, bây giờ là Trường Đại học Y Dược TPHCM.
“Thời điểm ra viện, bản thân còn yếu nhưng biết con trai theo học bác sĩ, tôi đã khóc vì hạnh phúc. Tôi biết con đã chịu nhiều áp lực nhưng với một niềm tin mãnh liệt, tôi tin con có thể vượt qua tất cả. Trong xã hội có nhiều nghề, nhưng có thể nói ít nghề nào lại được xã hội tôn vinh và quý trọng như nghề thầy thuốc.
Vì vậy, mới thấy nghề y quan trọng biết nhường nào, trong đó “y đức” là nguồn gốc của người thầy thuốc. Mong rằng con tôi cũng như bao thế hệ người làm nghề y có thể giữ gìn, phát huy truyền thống quý báu này”, PGS.TS Nguyễn Hữu Đức nói.
Theo tài liệu của Trường Đại học Y Dược TPHCM, năm 1947, Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, thường gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn được thành lập, như một phân hiệu của Trường Y khoa Hà Nội. Năm 1954, trường chính thức mang tên Trường Đại học Y Dược Sài Gòn, thường gọi ngắn gọn là Trường Y khoa Sài Gòn hoặc gọi một cách trang trọng là Y Dược Đại học đường Sài Gòn. Cuối năm 1961, Y Dược Đại học đường Sài Gòn được phân chia thành Y khoa Đại học đường Sài Gòn và Dược khoa Đại học đường Sài Gòn. Tiếp đó, Ban Nha khoa thuộc Y khoa Đại học đường Sài Gòn trở thành Nha khoa Đại học đường Sài Gòn.
Sau hội nghị hiệp thương thống nhất đất nước, Sài Gòn chính thức mang tên Thành phố Hồ Chí Minh. Để giải quyết các vấn đề về lãnh đạo và tổ chức, ngày 27/10/1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định thành lập Trường Đại học Y Dược TPHCM trên cơ sở sáp nhập 3 trường là Y khoa Đại học đường Sài Gòn, Nha khoa Đại học đường Sài Gòn và Dược khoa Đại học đường Sài Gòn, các trường trở thành Khoa Y, Khoa Răng Hàm Mặt và Khoa Dược.