Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng - mảnh ghép hào sảng của lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam
Khu di tích lịch sử cấp quốc gia Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên khánh thành tháng 8-2024, mô phỏng gần như nguyên bản của trường năm 1949, thuộc top những di tích lịch sử đặc biệt của lịch sử 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam… Ở vị trí trung tâm khu du lịch hồ Núi Cốc, di tích thu hút khá đông du khách mỗi ngày…
Như những mảnh ghép của quá khứ, tôi lần lần nhớ lại. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước có nhiều đoàn cán bộ các cơ quan, ban, ngành Trung ương tìm lại nơi ra đời hay từng đóng quân để lập hồ sơ và ghi dấu di tích, kết hợp tri ân địa phương, cơ sở, lớp người đi trước… Âu đó cũng là lẽ thường, vì thắng Pháp rồi còn lo đi đuổi Mỹ, đằng đẵng mấy chục năm trời, lúc ấy mới có điều kiện tri ân lịch sử. Làm phóng viên báo Đảng địa phương, chúng tôi hay được nhập vào các đoàn về nguồn, đơn giản vì trách nhiệm và quen thung thổ… Câu chuyện tìm mộ nhà báo liệt sĩ Thôi Hữu, Ủy viên Ban Biên tập Báo Sự thật (Báo Nhân Dân) hy sinh năm 1948 ở xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; chuyện tìm về nơi in Báo Nhân Dân số đầu tiên ngày 11-3-1951, tại bản Khuôn Nhà, xã Quy Kỳ, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên dễ dàng hơn vì nhân chứng còn nhiều. Tìm ra rồi, Báo Nhân Dân tổ chức dựng bia, xây lớp học cho các con em của bản, trở thành nơi đi về của báo mỗi kỳ sinh nhật. Báo Quân đội Nhân dân thành lập ngày 20-10-1950, tại bản Khau Diều, xã Thanh Định, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cũng dễ dàng tìm ra do được ghi chép tỉ mỉ và trong bản có anh Lê Nhâm, cộng tác viên Báo Bắc Thái rất thông tỏ việc này. Câu chuyện tìm về nơi ra đời Hội những người viết báo Việt Nam ngày 21-4-1950 cũng cực kỳ gian truân… Cuối cùng thì vị trí đồi Khau Quạo, xóm Roàng Khoa, xã Điềm Mặc (huyện Định Hóa) cũng phát lộ bằng sự nỗ lực tìm kiếm của các thế hệ lãnh đạo, nhân viên Hội Nhà báo Việt Nam, Báo Bắc Thái và các cơ quan báo chí. Bước sang thế kỷ XXI thì tất cả địa điểm liên quan đến báo chí, phát thanh, văn hóa, văn nghệ, điện ảnh… ra đời hoặc từng có trong năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp ở ATK Thái Nguyên đều làm xong, duy chỉ có địa chỉ Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng năm 1949 là để đó…

Tác giả (thứ 4 từ trái qua) chụp ảnh lưu niệm cùng đoàn công tác Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước và Ban Biên tập Báo Thái Nguyên tại Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng
Khi còn công tác ở Báo Bắc Thái chúng tôi có 3 lần được tiếp các học viên về nguồn, lần đầu hơn 20 người, các lần sau ít hơn. Nhiều người trong đoàn do có tên tuổi trong làng báo chí, văn hóa, văn nghệ mà anh em báo Đảng địa phương chúng tôi biết như: Bành Bảo, Nguyễn Bình, Trần Vũ, Hữu Mai, Hải Như, Hoàng Kiên Trung, Mai Thanh Hải, Lý Thị Trung,… Khi đi thăm lại địa điểm xưa, hỏi xóm Bờ Rạ không ai tỏ vì 11 xóm của Tân Thái không có tên. Ai cũng cho rằng xóm đã nằm dưới lòng hồ do nước dâng từ năm 1973… Biết tôi quan tâm, một người cháu gửi tặng cuốn “Đường tới Bờ Rạ” của tác giả Andrew Hardy do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp xuất bản năm 2008. Đọc xong cuốn sách dày 122 trang, hành trình đi tìm về Bờ Rạ là những cuộc di dân thời Pháp lên làm đồn điền và các cuộc di dân làm hồ Núi Cốc những năm 1970. Dù vậy, cái tên Bờ Rạ, Gốc Mít đã gây sự chú ý, có một phần từ chính các học viên lớp viết báo duy nhất trong kháng chiến chống Pháp này để lại qua các trang viết và câu chuyện kể… Bằng tìm hiểu, cái kết cuối cùng của Andrew Hardy là xóm Bờ Rạ có thật nhưng phần có dân, cạnh sông Công nằm dưới lòng hồ, nước dâng, dân đi hết, không còn tên xóm; phần đồi núi cao là rừng, núi, dân xóm Gốc Mít nhận khoán trồng rừng, làm rẫy. Thửa đất số 32, tờ bản đồ số 47, có tọa độ quốc gia 21 độ 35 phút 42 giây vĩ Bắc; 105 độ 41 phút 42 giây, loại đất trồng rừng đang xây dựng bia di tích lịch sử chính là đây.
Đau đáu về địa chỉ đỏ của báo chí một thời, nhà thơ Hải Như, tác giả bài thơ nổi tiếng “Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi…”: Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Bác vừa chợp mắt, xin chờ trăng ơi!… cũng đôi lần về Thái Nguyên và đều nghỉ tại Nhà khách Tỉnh ủy. Anh Lương Đức Tính, Bí thư, rồi anh Nguyễn Văn Vượng, Bí thư khóa sau luôn trân trọng bác Hải Như, thường giao cho tôi nhiệm vụ giúp bác trở lại xã Tân Thái… Nhưng quả thật rất khó vì tư liệu tản mạn, chủ yếu ký ức của từng người… Năm 1990 còn hơn 20 bác lên, năm 1994 chỉ có 13 bác lên. Rồi công việc bộn bề… Tôi chuyển hướng viết các bài báo, làm phóng sự với VTV1 “Ký ức Bờ Rạ “để có thêm tư liệu và sự ủng hộ. Thời gian nghiệt ngã, đến lúc này chỉ còn 4 bác trên dương thế. Trong phóng sự ấy, bà Lý Thị Trung lần nữa thể hiện ước nguyện có một tấm bia lưu danh sự kiện tại Tân Thái… Tôi thảng thốt về sự chậm chạp của hậu thế này. May thay, 2019 là năm kỷ niệm 70 năm của trường, cơ hội cuối cùng đây! Chủ tịch hội, các phó chủ tịch, Bảo tàng Báo chí Việt Nam ủng hộ; Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Nguyên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, huyện Đại Từ, xã Tân Thái đều ủng hộ, thế là công việc trôi chảy…


Tác giả đang thuyết minh cho đoàn công tác của BPTV và Ban biên tập Báo Thái Nguyên về Di tích lịch sử cấp Quốc gia Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng
Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng là do Bác Hồ đặt tên, bởi Cụ là cây đa, cây đề của báo chí yêu nước và cách mạng. Cụ Huỳnh sinh cuối năm 1876 ở làng Thanh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Cụ nổi danh vì đất Quảng Nam thời ấy có tam hùng (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Phạm Liệu). Cụ đỗ đạt cao, không chịu làm quan cho Pháp, bị đày ra Côn Đảo 13 năm… Ra tù, con đường quan lộ của cụ thật thênh thang nhưng cụ chối bỏ và năm 1927 làm chủ bút tờ báo Tiếng Dân. Hầu hết các bài xã luận trên tờ báo này đều do cụ viết, kích thích lòng yêu nước của độc giả. Báo chí lúc ấy bị thực dân Pháp kiểm duyệt chặt chẽ, có bài báo cụ bị yêu cầu sửa theo ý người kiểm duyệt, cụ khẳng khái: “Hoặc là cho đăng nguyên văn, hoặc là bỏ, một chữ cũng không sửa”… Bản lĩnh chủ bút ấy của cụ Huỳnh đã làm nên tên tuổi báo chí của cụ. Trong cuộc đời làm báo của mình, cụ Huỳnh xác định: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”…
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, cụ vào Nam Trung Bộ đảm nhiệm chức vụ đại diện chính phủ Trung ương. Cụ qua đời do lâm bệnh, mất ngày 21-4-1947, tại Quảng Ngãi. Cụ là chiến sĩ yêu nước nổi tiếng, một nhà báo can trường và nhân ái.
Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng có lớp đầu tiên và duy nhất, sau do điều kiện khó khăn không mở tiếp. Tuy ngắn hạn, không đông học viên, nhiều quy mô về nội dung và số cán bộ giảng dạy là những lãnh đạo của cuộc kháng chiến, kinh nghiệm và phong phú lý luận, thực tiễn…
Các ông Đỗ Đức Dục, Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh (Giám đốc), Xuân Thủy (Phó Giám đốc), Như Phong, Đồ Phồn và Tú Mỡ là các ủy viên của ban lãnh đạo. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Tổng bộ Việt Minh đọc diễn văn tại lễ khai trường ngày 4-4-1949 đã nói: “Lớp mang tên cụ Huỳnh Thúc Kháng bởi ngoài các phẩm chất của người yêu nước, là đức tính căn bản của một ký giả”.
42 học viên học trong 3 tháng, được đón 29 giảng viên: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo, Tố Hữu, Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Nam Cao, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Quang Đạm…, đại diện cho nhiều bộ môn mà người viết báo cần phải trau dồi… 3 tháng, nhưng học viên lĩnh hội một chương trình đồ sộ của 3 phần: lý thuyết, chuyên môn và thực hành.
Ngày 6-7-1949, tại đây, lớp học bế mạc. Bác Hồ gửi thư cho lớp. Bác biểu dương và nhắc 4 điểm chính về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích, đối tượng của mỗi tờ báo, mục tiêu của báo chí và nhấn mạnh: muốn viết báo thì cần: “1 - Gần gũi quần chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực. 2 - Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài và học kinh nghiệm của người. 3 - Khi viết xong một bài báo, tự mình phải xem lại ba, bốn lần, sửa chữa lại cẩn thận. Tốt hơn là đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào họ không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu. 4 - Luôn cố gắng học hỏi, luôn cầu tiến bộ…"
Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng là điển hình của cách học tập và truyền đạt sâu, kỹ và nghiêm túc. 42 học viên và 29 giảng viên là những hạt nhân của báo chí cách mạng Việt Nam luôn tỏa sáng và góp phần to lớn để có nền báo chí hôm nay.